Bài 2: Ngũ Hành Sơn - trung tâm Phật giáo xứ Đàng trong xưa

Bài 2: Ngũ Hành Sơn - trung tâm Phật giáo xứ Đàng trong xưa
3 giờ trướcBài gốc
Chùa Linh Ứng-Ngũ Hành Sơn không chỉ là ngôi chùa lâu đời nhất tại danh thắng mà còn là một trong những điểm du lịch nổi tiếng tại Đà Nẵng.
Cái tên xưa của vùng Non Nước ngày nay vẫn được ghi lại trên bia Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc. Tấm bia Ma nhai cổ nhất trên vách hang động Thủy Sơn lưu dòng chữ: "Niềm vui cõi tịch diệt của Phật nơi di tích xưa núi Ngũ Uẩn".
Nơi đây, hơn nghìn năm trước vốn là một trung tâm tôn giáo của vương quốc Champa. Khi thuộc về Đại Việt, Non Nước trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng của vùng đất Quảng, giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo xứ Đàng Trong.
Bước chân hoằng pháp và ký ức cộng cư trên văn khắc Ma nhai
Từ năm 2017, các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế) đã thực hiện chuyên đề “Di sản Phật giáo Ngũ Hành Sơn” và phát hiện hơn 90 văn bia Ma nhai trên vách các hang động trong ngọn Thủy Sơn, gồm: Huyền Không, Tàng Chơn, Vân Thông, Linh Nham và Âm Phủ.
Những kết quả nghiên cứu đã góp thêm nhiều bằng chứng khẳng định Ngũ Hành Sơn là trung tâm Phật giáo lớn của Đàng Trong với những cổ tự hình thành trên bước đường Nam tiến của di dân Đại Việt
Ma nhai bên trong một hang động tại Ngũ Hành Sơn.
Ma nhai Ngũ Hành Sơn được xem là bộ sử của Phật giáo Đàng Trong với nhiều tư liệu quý, lưu giữ những thông tin liên quan lịch sử hình thành, phát triển của một vùng đất - nơi đánh dấu sự cộng cư hài hòa, sinh động giữa người Việt di cư và người Chăm tiền trú.
Từ nội dung Ma nhai, có thể khẳng định khoảng nửa sau thế kỷ XV trở đi, Ngũ Hành Sơn đã từng bước định hình là một trong những trung tâm Phật giáo lớn tại Đàng Trong và Quốc tế, thu hút các vị thiền sư trong và ngoài nước đến đây hành đạo.
Dạo chơi Non Nước, vượt qua những bậc đá cheo leo vào tham quan hòn Thủy Sơn, du khách không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy văn bia chữ Hán “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc” do nhà sư Huệ Đạo Minh khắc vào vách đá động Vân Thông từ năm 1631.
Nhà sư Huệ Đạo Minh đã mượn toàn văn lời phát nguyện của Từ Vân Sám Chủ được lưu truyền trong kinh sách Tịnh độ tông, để cầu cho chúng sinh và bản thân được vào thế giới cực lạc của Phật A Di Đà. Tấm bia Ngũ Uẩn Sơn không chỉ là di tích lịch sử của Ngũ Hành Sơn mà còn là chứng tích về lịch sử Phật giáo xứ Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII.
Qua khảo sát văn bản Ma nhai tại 5 hang động thuộc Ngũ Hành Sơn cho thấy: So với các địa chỉ lưu dấu Ma nhai nổi tiếng cả nước tại Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Ma nhai Ngũ Hành Sơn vượt trội về mặt số lượng, tích hợp đa niên đại khắc bản, phong phú về thể loại, quy tụ nhiều thế hệ tác giả là bậc đế vương và danh nhân của ba miền đất nước, trong đó có cả người ngoại quốc.
Đặc biệt, Ma nhai “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” còn lưu giữ những ký ức về mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội giữa Việt Nam với các nước trên con đường hàng hải xuyên khu vực cũng như vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong hôn nhân quốc tế vào thế kỷ XVII.
Du khách khi khám phá Ngũ Hành Sơn, tham quan động Huyền Không, chùa Linh Ứng… không khỏi bất ngờ khi gặp những họa tiết Chăm lưu dấu trên sa thạch. Nghìn năm trước, nơi này là vùng đất thiêng của vương quốc Champa. Trải qua bao cuộc bể dâu, hồn xưa dấu cũ vẫn vương vất đâu đây trên từng thớ đá.
Anh Huỳnh Đăng Phương, hướng dẫn viên thuộc Ban Quản lý Danh thắng Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng cho biết: “Vào giữa thập niên 1980 khi cho trùng tu lại bàn thờ trong miếu Linh Động Chơn Tiên ở hòn Thủy Sơn, các tu sĩ đã phát hiện tượng Bồ tát Kim Cang Thủ chạm trên một đài thờ trong động Tàng Chơn.
Bức tượng có thể được tạo tác vào cuối thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X, thể hiện Bồ tát Kim Cang Thủ cưỡi trên lưng voi, xung quanh có bốn vị Bồ tát và chầu bởi bốn con sư tử.
Trong kinh điển Phật giáo, Kim Cang Thủ là một trong những vị Bồ tát xuất hiện sớm nhất ở Phật giáo Đại thừa; là thị giả của đức Phật Thích ca, tượng trưng ba đức tính tôn quý của chư Phật là: Bi trí dũng. Các nhà nghiên cứu nhận định đây là hình tượng duy nhất về vị Bồ tát này trong điêu khắc Phật giáo Champa”.
Ngôi chùa nhỏ bên trong động Huyền Không-Ngũ Hành Sơn, nơi còn lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo Champa cổ xưa.
Theo dòng lịch sử, Ngũ Hành Sơn vốn là một trung tâm tôn giáo của người Chăm. Sau khi thuộc về Đại Việt, nơi đây đã trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng. Các thiền sư đến nơi này dựng chùa, hành đạo, khiến Phật giáo nhanh chóng phát triển, tạo nên sự đa dạng của Phật giáo trên vùng đất phía nam đèo Hải Vân, thuộc Xứ Đàng Trong.
Ngày nay, trên các bệ thờ nơi hang động Ngũ Hành Sơn, các vị Thần-Phật-Việt-Chăm vẫn cùng tọa lạc bên nhau, cùng được người dân khói hương chiêm bái.
Ngay từ thế kỷ thứ XVII, Phật giáo ở đây đã có sự ảnh hưởng rộng khắp. Tấm bia Ma nhai Phổ Đà Linh Trung Phật ở động Hoa Nghiêm đã thể hiện rõ điều này. Nội dung bia ghi danh tính của 53 Phật tử công đức.
Đặc biệt, trong số đó, có 10 người Nhật Bản và 3 người Trung Hoa phụng cúng tiền bạc để xây dựng chùa. Sự xuất hiện của những người ngoại quốc ở vùng Ngũ Hành Sơn chứng tỏ nơi đây từ rất lâu đã trở thành một trung tâm văn hóa bên cạnh cảng Hội An và cũng là một bộ phận quan trọng của thành phố thương mại này.
Điều đó cũng cho thấy, thời kỳ này, Ngũ Hành Sơn đã trở thành một trung tâm Phật giáo mang tầm quốc tế. Ma nhai Ngũ Hành Sơn không chỉ ghi dấu về sự hình thành các cộng đồng thương nhân người Hoa, người Nhật ở xứ Đàng Trong và mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Á trong giai đoạn thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, mà còn phản ánh sự du nhập của Phật giáo với vai trò như một nhịp cầu nối kết các cộng đồng có các đặc điểm văn hóa, chính trị-xã hội khác nhau trên cùng một vùng đất.
Những nét văn hóa mang sắc màu Việt-Trung in đậm tại một ngôi chùa tọa lạc tại ngọn Thủy Sơn.
Hệ thống di tích dày đặc trong Ngũ Hành Sơn bao gồm hàng chục ngôi chùa, am, tháp, miếu thờ, hàng trăm di vật, cổ vật quý hiếm, chứa đựng tinh thần, tư tưởng đa nguyên của văn hóa Việt Nam.
Thật hiếm có một di tích nào lại bao hàm cả một phức hợp các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Việt, người Hoa và cả người Chăm bản địa như Phật giáo, Đạo giáo, đạo Mẫu, Bà la môn giáo.
Điều này phản ánh nguyên vẹn chân dung của diễn trình giao lưu, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa Chăm-Việt-Hoa trên dải đất miền trung, cũng như thái độ ứng xử hòa hiếu, mang đậm chất nhân văn của những tộc người chung sống cùng nhau trong quá trình di cư, hòa huyết.
Trung tâm Phật giáo Xứ Đàng Trong
Từ ngay sau cuộc nam chinh năm 1471 của vua Lê Thánh Tông, vùng đất này đã sớm định hình là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Đại Việt. Ngũ Hành Sơn có một quần thể di tích phức hợp 14 ngôi cổ tự danh tiếng nằm trong lòng hang động. Trong đó chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng đã được vua Minh Mạng sắc phong Quốc tự vào năm 1825.
Các nguồn tư liệu cho biết, chùa Thái Bình ở Thủy Sơn có thể ra đời sớm nhất trong các ngôi chùa thuộc vùng Ngũ Hành Sơn, từ thời vua Lê Thánh Tông, do các đoàn di dân Đại Việt từ phía bắc vào phụng lập từ thế kỷ 15.
Ngoài ra, các hoành phi, liễn đối, bia ký, cổ vật khắc chữ ngự ban của vua chúa nhà Nguyễn còn lưu giữ tại đây đã phản ánh sự trọng đãi của nhà Nguyễn với Phật giáo Ngũ Hành Sơn. Đến cuối thế kỷ XVII, Ngũ Hành Sơn còn tiếp nhận sự truyền nhập của 2 phái thiền Tào Động và Lâm Tế đến từ Trung Hoa, với các thiền sư danh tiếng.
Tất cả các văn bản, thư tịch cổ, bi ký, tư liệu cũng như các di vật di sản hiện nay đang còn lưu lại trên Ngũ Hành Sơn là cơ sở để chứng minh rằng nơi đây đã quy tụ rất nhiều bậc cao tăng, tín đồ ở trong nước cũng như quốc tế đến hành hương, chiêm bái.
Trong nhiều thế kỷ, Ngũ Hành Sơn đã trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng, giữ vai trò thúc đẩy phát triển, tạo nên sự đa dạng tôn giáo trên vùng đất phía nam đèo Hải Vân này.
Ngày 26/11/2022, tại Hội nghị toàn thể lần thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương diễn ra tại Hàn Quốc, “Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam” chính thức được công nhận là Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Quốc tự Tam Thai - một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất tại Ngũ Hành Sơn.
Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn được đánh giá là nguồn di sản tư liệu quý hiếm, độc đáo, bởi những giá trị nhiều mặt về lịch sử, tôn giáo, địa lý, văn học, ngôn ngữ, nghệ thuật tạo hình, văn hóa và giáo dục.
Đặc biệt di sản tư liệu Ma nhai này chính là nguồn sử liệu phong phú và chân xác, chứng minh vùng Non Nước xưa - Ngũ Hành Sơn ngày nay chính là một trung tâm Phật giáo của Xứ Đàng Trong, được hình thành trong quá khứ và phát triển cho đến tận ngày bây giờ.
Trải qua bao thế kỷ, Ngũ Hành Sơn luôn là một trung tâm thực hành lễ nghi Phật giáo. Vào tháng 2 âm lịch hằng năm, tại đây diễn ra lễ hội Quán Thế Âm truyền thống, với các nội dung mang tính nhân văn sâu sắc.
Từ năm 2021, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định công nhận “Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn” diễn ra tại chùa Quán Thế Âm vào ngày 19/2 âm lịch hằng năm là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Ngũ Hành Sơn vốn là một trung tâm tôn giáo của người Chăm bản địa, sau khi thuộc về Đại Việt lại trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng, có ảnh hưởng lớn trong xã hội và mang tính quốc tế.
Đến cuối thế kỷ XVII, nơi đây đón nhận sự truyền nhập của cả hai thiền phái Tào Động và Lâm Tế. Các thiền sư đến đây dựng chùa, hành đạo, khiến Phật giáo nhanh chóng phát triển, ảnh hưởng lớn không chỉ trong dân chúng, mà còn cả với các chúa Nguyễn.
Có thể nói, trong thế kỷ XVII, Ngũ Hành Sơn là nơi tạo được không khí sinh hoạt Phật giáo hưng thịnh bậc nhất ở Xứ Quảng, giữ vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển, tạo nên sự đa dạng của Phật giáo trên vùng đất Xứ Đàng Trong xưa.
PHƯƠNG LAN - LÂM PHAN
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/bai-2-ngu-hanh-son-trung-tam-phat-giao-xu-dang-trong-xua-post933660.html