Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Phật giáo không chỉ hiện hữu như một sinh hoạt tín ngưỡng, mà còn đóng vai trò là nguồn lực tinh thần góp phần định hình bản sắc dân tộc, xây dựng đạo đức xã hội. Đồng thời, Phật giáo hun đúc lý tưởng yêu nước, tinh thần nhân văn trong mỗi con người Việt Nam hướng tới tương lai thịnh vượng, bền vững. Văn hóa Phật giáo cũng thấm sâu vào đời sống, tạo nên những giá trị đặc biệt khơi nguồn sáng tạo cho văn học nghệ thuật.
Văn hóa Phật giáo như dòng suối chảy suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, chúng ta có thể tìm thấy ở những tập sách cũ như Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Thiền Uyển Tập Anh nhiều câu chuyện về Phật giáo đến Việt Nam. Ví dụ như chuyện về Man Nương hay Chử Đồng Tử. Những ca dao, tục ngữ như “ở hiền gặp lành”, “Ác giả, ác báo”, “Có đức mặc sức mà ăn” đều có liên quan đến thuyết nhân quả của nhà Phật. Mặt khác, Phật giáo thấm đẫm trong đời sống nhân gian, tạo nên một hệ giá trị khơi nguồn sáng tạo cho nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật. Không chỉ truyền cảm hứng cho sáng tạo, Phật giáo còn kiến tạo một “không gian văn hóa sống”, nơi nghệ thuật được nuôi dưỡng, thực hành, lan tỏa và gắn bó hữu cơ với đời sống cộng đồng.
Trong thăng trầm lịch sử, chùa chiền không đơn thuần là nơi hành lễ, mà là không gian giáo dục, sáng tác, trình diễn và lưu giữ các giá trị thẩm mỹ. Tại đó, văn học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu và lễ hội cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, tạo nên môi trường thuận lợi cho nghệ thuật phát triển tự nhiên, bền bỉ và có chiều sâu.
Nhiều nhà nghiên cứu có chung nhận định, tư tưởng từ bi, trí tuệ; tinh thần vị tha, vô ngã, hướng thiện của Phật giáo đã định hướng cho nghệ thuật vượt lên trên cái tôi cá nhân, hướng đến con người và cộng đồng. Đồng thời, đạo Phật dung hợp linh hoạt với tín ngưỡng bản địa, tâm thức nông nghiệp, triết lý phương Đông để hình thành bản sắc nghệ thuật riêng, thể hiện sự hòa quyện giữa triết lý giác ngộ và đời sống dân gian. Chính sự dung hợp này đã tạo nên môi trường thẩm mỹ mở, khuyến khích sáng tạo và làm giàu bản sắc dân tộc.
Những ngôi chùa là nơi lưu giữ những giá trị kiến trúc, văn hóa, mỹ thuật truyền thống của cha ông. Ảnh: Nguyệt Ánh
Trong lĩnh vực âm nhạc và sân khấu, Phật giáo như một “nguồn mạch” nuôi dưỡng nghệ thuật truyền thống. Nhạc lễ Phật giáo không chỉ phục vụ nghi lễ, mà còn hình thành hệ thống tiết tấu, làn điệu, ảnh hưởng sâu sắc đến chèo, ca trù, quan họ, chầu văn. Cách kể chuyện giáo hóa trong kinh điển là nền tảng cho nghệ thuật tự sự dân gian, nơi đạo lý được truyền tải qua hình thức nghệ thuật gần gũi, dễ cảm thụ.
Nhiều tác phẩm sân khấu kinh điển như Quan Âm Thị Kính, Mục Liên Thanh Đề… cho thấy rõ vai trò của Phật giáo như một “kho tàng kịch bản”. Ở đó, nghệ thuật là phương tiện giáo dục, nuôi dưỡng hiếu hạnh, tinh thần hướng thiện và ý thức trách nhiệm xã hội. Và, các lễ hội Phật giáo như Phật Đản, Vu Lan… chính là không gian trình diễn tổng hợp của nghệ thuật dân gian, tạo nên môi trường giao lưu văn hóa rộng mở, nơi nghệ thuật sống trong lòng cộng đồng và cộng đồng trở thành chủ thể sáng tạo.
Đạo Phật là nguồn cảm hứng, chất liệu cho nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, diễn xướng dân gian. Ảnh: Hữu Tiệp - Nguyện Ánh
Sâu xa hơn, nghệ thuật chịu ảnh hưởng Phật giáo không nhằm thống trị cảm xúc, hay áp đặt chân lý, mà nhẹ nhàng cảm hóa, đánh thức lương tri và dẫn dắt con người đến sự hài hòa nội tâm. Chính vì vậy, văn học nghệ thuật Phật giáo thường mang vẻ đẹp trầm lắng, sâu sắc, giàu tính suy niệm và bền bỉ với thời gian. Âm nhạc Trịnh Công Sơn với những “Một cõi đi về”, “Cát bụi”… thấm đẫm tư tưởng vô thường là một minh chứng cho dòng nghệ thuật thiền vị, đề cao sự tỉnh thức và tinh thần nhân văn.
Có thể khẳng định, Phật giáo không chỉ là nguồn cảm hứng nhất thời, mà là môi trường sinh thái văn hóa bền vững cho văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong môi trường ấy, nghệ thuật được nuôi dưỡng bằng trí tuệ và từ bi, phát triển hài hòa với đời sống dân tộc, góp phần làm sâu sắc bản sắc văn hóa Việt Nam trong dòng chảy lịch sử và hiện đại.
Theo Kinh Pháp Hoa, "Phật xuất hiện vì một đại sự nhân duyên, là khai thị chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật", tức là giúp con người đạt đến chân lý và sống một cuộc đời thiện lương. Giáo lý nhà Phật hướng con người đến chân - thiện - mỹ trong từng hành động, nói cách khác là kiến tạo lối sống nhân văn. Và, “một người sống vì hạnh phúc của số đông, vì an lạc của số đông, vì lòng thương tưởng đến thế gian” chính là nền tảng để giải quyết các vấn đề xã hội.
“Phật giáo Việt Nam từ thời mới du nhập vào đã có những triết lý phù hợp và luôn đồng hành cùng con đường xây dựng, gìn giữ và phát triển đất nước ở mọi thời kỳ”, Hòa thượng, TS Thích Thanh Điện nói và chia sẻ thêm: “Phật giáo với tinh thần từ bi và trí tuệ không chỉ là di sản tinh thần quý giá của dân tộc, mà còn là “ngọn đuốc” soi sáng con đường xây dựng con người Việt Nam giàu nhân văn, bản lĩnh và trí tuệ, sẵn sàng hội nhập nhưng vẫn giữ vững bản sắc trong kỷ nguyên mới của đất nước”.
Nhiều hoạt động lan tỏa tinh thần từ bi, nhân ái của đạo Phật góp phần định hướng, xây dựng đạo đức xã hội. Ảnh: Nguyệt Ánh
Hệ thống giáo lý Phật giáo Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc định hướng đạo đức xã hội và tăng cường sự gắn kết cộng đồng. Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng các chất gây nghiện) đã trở thành những chuẩn mực đạo đức phổ quát trong đời sống xã hội, hướng con người đến lối sống lành mạnh, đề cao sự trung thực, tiết chế dục vọng và ý thức trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.
Trong khi Lục độ Ba-la-mật không chỉ là giáo lý tu hành, mà hòa nhập cùng đạo lý dân tộc, trở thành nền tảng quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Lục độ Ba-la-mật hun đúc tinh thần "tương thân tương ái", “lá lành đùm lá rách”; góp phần xây dựng ý thức thượng tôn pháp luật, giữ gìn chuẩn mực xã hội; biết sống bao dung, hòa ái; nuôi dưỡng ý chí, tinh thần bền bỉ trước thử thách; rèn luyện sự tỉnh thức và giúp con người phân biệt đúng - sai, thiện - ác. Lý tưởng Bồ Tát với tinh thần từ bi, vô ngã, vị tha đã trở thành nền tảng đạo đức để gắn kết con người với con người, cá nhân với cộng đồng, đạo với đời, từ đó góp phần không nhỏ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mặt khác, thuyết nhân quả của nhà Phật chỉ ra rằng: Con người tự chịu trách nhiệm về hạnh phúc hay đau khổ bằng hành vi của mình. Chính vì vậy, mỗi người phải thật sự nỗ lực để hoàn thiện bản thân, là chủ nhân của chính mình. Một khi đánh mất giá trị bản thân, con người dễ dàng bị cám dỗ trước những cạm bẫy. Thuyết nhân quả không chỉ là một quy luật, mà còn là một nguyên tắc ứng xử cho mọi hành động trong đời sống xã hội.
Có thể khẳng định, với hệ giá trị giáo lý giàu tính nhân văn, Phật giáo Việt Nam đã và đang đóng góp thiết thực vào việc xây dựng nền đạo đức xã hội. Và, thực tế đã chứng minh, giáo lý nhà Phật phù hợp với cốt cách dân tộc Việt Nam, là một điểm tựa để xây dựng nền tảng đạo đức xã hội trong thời đại mới trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, khi xã hội đối mặt với những biểu hiện xuống cấp đạo đức, lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa, thiếu lý tưởng, mất niềm tin cũng như sự phân hóa giá trị, khoảng cách giàu nghèo…, vai trò của Phật giáo càng trở nên rõ nét. Phật giáo không chỉ tham gia kiến tạo lối sống, kết nối quá khứ và hiện tại, mà cần nhập thế mạnh mẽ hơn, từ đó thức tỉnh, ngăn chặn sự lệch chuẩn, thắp sáng tinh thần biết ơn và bao dung, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, góp phần định hướng lối sống hiện đại có chiều sâu, nhân ái và gắn bó cộng đồng.
Nhóm phóng viên