Bài học từ các đô thị thông minh: Gợi mở con đường cho TP.HCM (Bài 2)

Bài học từ các đô thị thông minh: Gợi mở con đường cho TP.HCM (Bài 2)
6 giờ trướcBài gốc
Barcelona không phải là thành phố thông minh theo nghĩa thuần công nghệ, mà là một chương trình chính sách đô thị tích hợp
Bài học thành công, thất bại
Barcelona không phải là “thành phố thông minh” theo nghĩa thuần công nghệ, mà là một chương trình chính sách đô thị tích hợp - một “mạng lưới các mạng”, kết hợp hạ tầng viễn thông, nền tảng dữ liệu đô thị, can thiệp quy hoạch không gian công cộng và cơ chế tham gia dân sự. Sự hình thành chiến lược này có hai chiều song hành: Đầu tư hạ tầng kỹ thuật (cáp quang, nền tảng IoT, City OS) nhằm thu thập và phân tích dữ liệu vận hành; Thay đổi thể chế quản trị để dữ liệu trở thành tài sản công, đồng thời mở không gian cho thí nghiệm đô thị và sự tham gia trực tuyến của công dân. Thực tiễn Barcelona cho thấy chính sách trên được thực hiện có hệ thống, có lộ trình và có điều chỉnh chính sách theo phản hồi xã hội - điều khiến mô hình này khác biệt so với các nỗ lực “xây mới bằng công nghệ” thiếu bệ đỡ xã hội.
Barcelona đặt mục tiêu “làm cho thành phố thông minh trong một thế hệ” và tổ chức một đội ngũ chiến lược cấp cao để hợp nhất các dự án rời rạc, cắt giảm “silo” giữa các sở ban ngành và thúc đẩy các đối tác công - tư.
Barcelona đầu tư sớm và có quy mô vào hạ tầng truyền dẫn: Mạng sợi quang nội bộ dài hàng trăm km tạo lớp liên thông kết nối tòa nhà, đèn đường, trạm giao thông - điều kiện cần để vận hành các dịch vụ thời gian thực. Trên nền đó, thành phố phát triển City OS (nền tảng big - data nội bộ) và nền tảng IoT mã nguồn mở Sentilo, có nhiệm vụ thu gom, chuẩn hóa và phân phối dữ liệu cảm biến giữa các ứng dụng/người quản lý. Việc chọn giải pháp mã nguồn mở và sau đó khuyến khích chia sẻ trong vùng vừa giảm rủi ro “vendor lock-in”, vừa tạo điều kiện cho phát triển hệ sinh thái ứng dụng.
Barcelona công khai dữ liệu mở, đồng thời phát triển các công cụ và quy trình để bảo vệ dữ liệu cá nhân và tăng cường quyền kiểm soát cho công dân. Song song, thành phố đầu tư vào nền tảng tham gia công dân để đưa phản hồi và quyết định công khai lên nền tảng số. Việc kết hợp mở dữ liệu vận hành và quyền kiểm soát cá nhân đã tạo ra các dịch vụ mới và niềm tin để người dân chấp nhận thu thập dữ liệu.
Amsterdam coi mình là một phòng thí nghiệm sống, nơi chính sách và công nghệ được thử nghiệm trực tiếp trong đời sống thường nhật của người dân
Amsterdam lại đi theo một hướng khác. Thành phố này coi mình là một phòng thí nghiệm sống, nơi chính sách và công nghệ được thử nghiệm trực tiếp trong đời sống thường nhật của người dân. Các dự án từ quản lý giao thông, năng lượng tái tạo cho đến tái thiết không gian công cộng đều bắt đầu ở quy mô nhỏ, trong phạm vi một khu phố hay một quận. Thành công hay thất bại được đo lường bằng dữ liệu thực tế, từ đó quyết định việc nhân rộng. Mô hình này giảm thiểu rủi ro tài chính, cho phép cộng đồng tham gia đồng kiến tạo, từ ý tưởng đến triển khai.
Trong khí đó, Toronto là trường hợp điển hình cho thấy những rủi ro khi đô thị thông minh bị chi phối quá mạnh bởi lợi ích doanh nghiệp. Năm 2017, Toronto ký thỏa thuận với Sidewalk Labs - công ty con của Alphabet (Google) để phát triển khu đô thị thông minh tại bờ Đông thành phố. Tham vọng của dự án là biến một khu đất rộng 4,9 ha ven hồ Ontario thành “thành phố của tương lai”, nơi mọi khía cạnh đời sống từ giao thông, môi trường, năng lượng đến nhà ở đều được tối ưu bằng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo.
Ngay từ đầu, hàng loạt công nghệ tiên tiến được đề xuất, như đường sá sưởi ấm để chống tuyết, xe tự hành, hệ thống năng lượng tái tạo kết hợp pin lưu trữ, và thiết kế modular giúp nhà ở dễ dàng thay đổi cấu trúc. Thế nhưng, chỉ sau hai năm, dự án vấp phải làn sóng phản đối dữ dội. Nguyên nhân chính nằm ở quản trị dữ liệu. Sidewalk Labs đề xuất triển khai hệ thống cảm biến toàn diện, từ giao thông, chất lượng không khí đến hành vi người dân, nhưng không đưa ra cơ chế rõ ràng về quyền sở hữu và kiểm soát dữ liệu. Điều này làm dấy lên lo ngại rằng dữ liệu công cộng vốn là “tài sản số” của người dân Toronto sẽ rơi vào tay một tập đoàn công nghệ đa quốc gia. Các chuyên gia, học giả và tổ chức xã hội dân sự đồng loạt lên tiếng, coi đây là “một thử nghiệm công nghệ trên chính cư dân thành phố”.
Từ các cách làm trên cho thấy, đô thị thông minh không thể chỉ dựa vào sức mạnh công nghệ và viễn cảnh đầu tư, mà phải dựa trên nền tảng quản trị minh bạch, khung pháp lý chặt chẽ và sự tham gia của cộng đồng.
Bài học quan trọng nhất cho TP.HCM là công nghệ chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là một mô hình quản trị đô thị minh bạch, đặt người dân làm trung tâm - Ảnh: Quỳnh Lâm
Con đường cho TP.HCM
Với TP.HCM, bài học từ Toronto là không thể bỏ qua. Thành phố có thể thu hút đầu tư tư nhân trong các dự án đô thị thông minh nhưng cần đặt ra “ranh giới đỏ”: Dữ liệu phải được quản lý như tài sản công, mô hình hợp tác công - tư phải minh bạch và người dân phải được tham gia ngay từ giai đoạn thiết kế. Chỉ khi đó, đô thị thông minh mới trở thành công cụ vì lợi ích cộng đồng, thay vì rơi vào tay một nhóm lợi ích.
Songdo của Hàn Quốc lại là một lát cắt khác. Được xây dựng với vốn đầu tư hàng chục tỷ USD, Songdo ra đời với tham vọng trở thành “thành phố từ tương lai”. Hệ thống cảm biến phủ khắp, đường sá, công trình đều được quy hoạch mới tinh. Thế nhưng, hơn một thập kỷ sau, Songdo vẫn bị gọi là “thành phố ma”. Người dân không mặn mà chuyển đến, doanh nghiệp cũng dè dặt. Sai lầm ở đây không nằm ở công nghệ, mà ở cách tiếp cận: thay vì để đô thị phát triển hữu cơ từ nhu cầu thực tế của xã hội, Songdo chọn “thiết kế trên giấy” rồi áp đặt xuống, dẫn đến một thành phố thiếu linh hồn, thiếu bản sắc và không thu hút được cư dân thực thụ.
Đặt trong bối cảnh TP.HCM, những câu chuyện này trở thành tấm gương soi chiếu. Thành phố mới sau sáp nhập có quy mô dân số hơn 12,5 triệu, đóng góp tới 25% GDP cả nước, nhưng đang phải đối diện với những thách thức nan giải: Giao thông ùn tắc, ngập lụt, áp lực môi trường, và hệ thống quản lý dữ liệu còn phân tán. Nếu chọn cách “Songdo hóa” - xây dựng một đô thị thông minh hoàn toàn mới, tách biệt khỏi thực tế xã hội, TP.HCM chắc chắn sẽ vấp phải thất bại. Nếu để một tập đoàn tư nhân nắm giữ dữ liệu công dân như bài học Toronto, niềm tin xã hội sẽ bị xói mòn. Con đường khả dĩ nhất chính là cách Barcelona và Amsterdam đã đi: Xây dựng hạ tầng số gắn liền với dữ liệu mở, chủ quyền thuộc về chính quyền đô thị; tạo không gian để người dân tham gia đồng sáng tạo; và triển khai từng bước nhỏ, đo lường, rồi mới nhân rộng.
Bài học quan trọng nhất cho TP.HCM là: công nghệ chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ phải là một mô hình quản trị đô thị minh bạch, đặt người dân làm trung tâm và triển khai theo cách có kiểm chứng. Nếu biết kết hợp hạ tầng số với cơ chế dữ liệu mở, khuyến khích cộng đồng tham gia và chọn mô hình thí điểm trước khi nhân rộng, TP.HCM hoàn toàn có thể xây dựng lộ trình đô thị thông minh mang bản sắc riêng, thay vì chạy theo những dự án công nghệ hào nhoáng nhưng thiếu chiều sâu.
TP.HCM cần coi dữ liệu là hạ tầng số cơ bản như điện, nước, đường sá. Chỉ khi các dữ liệu về đất đai, dân cư, doanh nghiệp được chuẩn hóa và chia sẻ qua API mở, doanh nghiệp công nghệ và startup mới có thể phát triển ứng dụng phục vụ người dân, giảm gánh nặng cho ngân sách. Học từ Amsterdam, TP.HCM nên chọn một số quận làm “phòng thí nghiệm đô thị” - chẳng hạn khu vực Thủ Đức (trước đây) cho giao thông thông minh, một số phường thuộc quận 7 (trước đây) cho năng lượng tái tạo, phường Sài Gòn cho quản lý du lịch… để thử nghiệm chính sách, đo lường kết quả, trước khi mở rộng.
Nghị quyết 57-NQ/TW đã định hướng rõ: đô thị thông minh không chỉ là việc triển khai công nghệ, mà phải trở thành động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Điều này đòi hỏi TP.HCM phải cụ thể hóa các chiến lược như: chuyển dữ liệu thành hạ tầng số cơ bản, thiết kế siêu ứng dụng nhằm tăng cường tương tác giữa người dân và chính quyền, thử nghiệm các chính sách theo mô hình “sandbox” để giảm rủi ro trước khi nhân rộng, và đảm bảo mọi bước đi đều dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội.
Theo lý thuyết quản trị đô thị thông minh (Smart City Governance), một đô thị hiệu quả phải tích hợp ba yếu tố: hạ tầng kỹ thuật số, năng lực quản trị và sự tham gia của cộng đồng.
(*) Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam tại châu Âu (VYBE)
Hưng Khánh ghi
Trần Hà My (*)
Nguồn DNSG : https://doanhnhansaigon.vn/bai-hoc-tu-cac-do-thi-thong-minh-goi-mo-con-duong-cho-tp-hcm-bai-2-323302.html