Học sinh trong kỳ thi vào lớp 10 công lập ở Hà Nội năm 2025. Ảnh: Việt Hà.
"Tôi rất lăn tăn về đáp án phần Nghị luận xã hội trong đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn của Hà Nội. Câu lệnh là “Làm thế nào để tìm thấy niềm vui tuổi học trò?”. Tại sao đáp án lại có nguyên nhân, thực trạng? Nguyên nhân của việc tìm niềm vui tuổi học trò là gì? Và thực trạng vấn đề đó sẽ là gì?”.
Đó là chia sẻ của TS Phùng Diệu Linh, giảng dạy Ngữ văn tại Hà Nội.
Ngày 11/6, sau khi Sở GD&ĐT Hà Nội công bố đáp án và thang điểm chấm thi môn Ngữ văn kỳ thi tuyển sinh lớp 10, không chỉ cô Linh, một số người khác cũng cho rằng đáp án chưa thực sự phù hợp với câu lệnh trong phần nghị luận xã hội.
Đề thi và đáp án đang vênh?
Cụ thể, phần Nghị luận xã hội trong đề thi Ngữ văn lớp 10 nêu: “Những năm tháng học tập dưới mái trường là quãng thời gian quý giá với biết bao niềm vui bên thầy cô, bạn bè... Tuy nhiên, không phải ai cũng cảm nhận được điều đó. Em hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trả lời câu hỏi: Làm thế nào để luôn tìm thấy niềm vui tuổi học trò?”.
Đáp án chấm chính thức của Sở GD&ĐT Hà Nội yêu cầu: Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp chặt chẽ lý lẽ và bằng chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận.
Có thể triển khai các ý chính theo hướng: Hiểu thế nào là niềm vui tuổi học trò; Chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân…; Đề xuất những giải pháp khả thi, có tính thuyết phục.
Đề thi vào lớp 10 năm học 2025-2026, phần nghị luận.
Các yêu cầu cần đạt theo đáp án của Sở GD&ĐT Hà Nội.
TS Phùng Diệu Linh nhận định câu hỏi là “Làm thế nào để tìm thấy niềm vui tuổi học trò?”, tập trung vào giải pháp để tìm thấy niềm vui tuổi học trò.
Với yêu cầu này, học sinh sẽ cần nêu được vấn đề nghị luận và quan điểm của bản thân về vấn đề đó; giải thích làm rõ vấn đề (phần biểu hiện đưa vào đây vì cùng mục đích làm rõ); bàn về giải pháp (đề xuất, chứng minh tính khả thi, thuyết phục).
Song, đáp án chấm lại gợi ý chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân. Cô Linh cho rằng những yếu tố này không phù hợp với câu lệnh gốc.
"Nguyên nhân của việc tìm niềm vui tuổi học trò là gì? Và thực trạng vấn đề đó sẽ là gì? Có phải cứ thực trạng tồi tệ nào mới cần phát triển một việc nào đó không?", TS Linh nêu vấn đề.
Theo cô, nếu thực sự muốn học sinh viết về thực trạng hay nguyên nhân, đề thi cần đưa rõ vấn đề đánh mất niềm vui ở tuổi học trò trong lệnh hỏi. Nguyên tắc cơ bản của giao tiếp là hỏi gì đáp nấy. Vì vậy, TS Linh hy vọng đây chỉ là chút nhầm lẫn khi làm và duyệt đáp án.
“Lúc chấm thi, hội đồng nên chỉnh sửa lại để tránh máy móc và cũng không vênh giữa đề và đáp án”, cô Linh nói.
Nội dung hợp lý hơn theo TS Linh là: Làm rõ vấn đề nghị luận; Bàn về giá trị của niềm vui học trò (có thể không có); Trọng tâm của bài bàn về giải pháp (có 2-3 giải pháp và mỗi giải pháp đều cần chứng minh tính thuyết phục, khả thi bằng lý lẽ và bằng chứng).
Một số ý kiến đồng tình với quan điểm của cô Linh. Theo đó, trên mạng xã hội, một giáo viên khác cũng cho rằng câu lệnh trong đề nghị luận xã hội có vai trò định hướng cách hiểu, cách tiếp cận vấn đề của học sinh.
Với câu lệnh “Làm thế nào để luôn tìm thấy niềm vui tuổi học trò?”, giáo viên này băn khoăn về lý do yêu cầu học sinh phải chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân.
Ngoài ra, cô giáo còn cho rằng với yêu cầu viết đoạn văn khoảng 400 chữ, việc đề xuất giải pháp khả thi, có sức thuyết phục đã hết dung lượng; rất khó để giải thích thêm khái niệm niềm vui tuổi học trò và chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân…
Đưa bài văn vào một khuôn cố định là điều không nên
Tuy nhiên, trao đổi với Tri Thức - Znews, thầy Võ Kim Bảo (giáo viên Ngữ văn tại trường THCS Nguyễn Du, TP.HCM) lại đồng tình với đáp án phần Nghị luận xã hội ở môn Ngữ văn của Sở GD&ĐT Hà Nội.
Theo thầy Bảo, đề thi có đề cập đến việc “không phải ai cũng cảm nhận được điều đó”. Như vậy, học sinh nêu được thực trạng và nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là rất tốt, thể hiện được sự am hiểu về vấn đề.
Bên cạnh đó, việc nêu nguyên nhân cũng là điều cần thiết để giải quyết được câu lệnh “Làm thế nào để luôn tìm thấy niềm vui tuổi học trò?” - tức, học trò cần hiểu nguyên nhân mới tìm ra được giải pháp thiết thực, khả thi.
Tuy nhiên, theo thầy giáo, các phần giải thích, thực trạng, nguyên nhân, học sinh không cần viết quá dài. Các em cần đầu tư vào các giải pháp như yêu cầu, nêu được cách thực hiện giải pháp, đối tượng thực hiện, tính khả thi của giải pháp, ví dụ thực tế cho giải pháp…
Thầy Bảo cũng nhắc đến chi tiết phần đáp án sử dụng từ “có thể”, tức là không bắt buộc học sinh phải theo khung giải thích - thực trạng - nguyên nhân - giải pháp.
“Như vậy, học sinh có thể làm theo nhiều cách, miễn đáp ứng đúng yêu cầu. Tuy nhiên, nếu bài viết thể hiện được nguyên nhân, đưa ra giải pháp từ gốc nguyên nhân sẽ là bài được chấm điểm lập luận cao hơn, chứ không phải sai”, thầy Bảo nhìn nhận.
Theo thầy giáo, chương trình giáo dục phổ thông mới hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Việc đưa bài làm của học sinh vào một khuôn cố định là điều không nên.
Học sinh có nhiều cách lựa chọn, miễn sao đáp ứng yêu cầu cần đạt. Thang điểm cho chương trình này nếu cụ thể, chi tiết từng chút một thì vô tình lại đặt ra "khuôn mẫu" cho bài văn.
Và đáp án cũng dùng từ "có thể", nên chúng ta chỉ xem đó là những gợi ý, định hướng chấm của Sở GD&ĐT.
Thầy Bảo lưu ý bản thân giáo viên khi chấm cũng cần dựa trên yêu cầu cần đạt và khả năng đáp ứng yêu cầu đó của học sinh, chứ không phải dựa trên bất cứ khuôn mẫu nào.
Ngọc Bích