1.Không phải ngẫu nhiên, quan hệ giữa bạn tình, bạn trăm năm, bạn lan, bạn ngọc được gọi "Đầu ấp tay gối" - là đầu người này gối lên cánh tay người kia. Đằm thắm. Quấn quýt. Có đôi có lứa. Khó có thể tách rời. Rồi lúc rơi vào tâm trạng như ca từ của nhạc sĩ Dzoãn Mẫn: "Biệt ly nhớ nhung từ đây/ Chiếc lá rơi theo heo may", niềm an ủi còn sót lại vẫn là:
Chàng về để áo lại đây
Áo thời thiếp mặc, gối mây đợi chờ
Tại sao lại là áo? Chỉ vì có mùi thương, mùi nhớ, nói gọn lại là mùi hương đã từng có nhau. Thi hào Nguyễn Du đúng là bậc thượng thừa khi phân tích tâm lý, thói quen của sự nồng nàn chăn gối ấy: "Hương gây mùi nhớ". Từ "gây" cực kỳ chuẩn xác. Là sự gợi lên, nhóm lên, nhen lên. Có những việc đã qua, đã quên, đã chìm sâu trong tiềm thức, đã thất lạc trong ký ức thế nhưng chỉ một mùi hương cũ thoáng đến, thoáng qua dù vô tình hay hữu ý đều khiến con người ta nhớ lại mồn một. Nhớ rõ nét. Nhớ từng chân tơ kẽ tóc.
Nét đẹp xưa của "bạn lan", ảnh tư liệu.
Cô nàng trong câu ca dao hàng ngàn năm trước, "Áo thời thiếp mặc" để "tưởng nhớ mùi hương", nàng còn đặt đầu trên chiếc "gối mây". Có phải đây là chiếc gối làm từ cây mây? “Từ điển tiếng Huế” (NXB Văn học-2004) của Bùi Minh Đức giải thích: "Gối mây: "Thứ gối dân Huế thường dùng: hai đầu là hai miếng ván vuông, có trục ở giữa, có dây mây mềm lát dày bốn mặt của 2 sườn vuông hai đầu, khi gối lên các sợi mây căng nhún nên đầu không đau. Trưa hè nằm trên tấm phản mát, tựa gối mây mềm mà ngủ cũng là một cái thú" (tr.396).
Tùy theo vật dụng mà người ta đặt tên cho chiếc gối ấy. “Gối rơm theo phận gối rơm/ Có đâu dưới thấp mà chờm lên cao” (Lục Vân Tiên), là cái gối nhồi rơm, đệm bằng bàng, còn gọi gối đệm. Thông thường người ta làm gối bằng cách độn bông gòn, ca dao có câu: "Lạy trời cho gió rung cây/ Hoa gạo rụng xuống cỏ may xâu vào" thì hoa gạo cũng là tên gọi của bông gòn.
Hoàn cảnh sang giàu, nghèo khó, ai cũng có chiếc gối. Sung sướng, tình nghĩa nồng nàn nhất vẫn là "Đầu ấp tay gối". Thê thảm, rầu rĩ nhất vẫn là những ai "Gối đất nằm gai/ Gối tuyết nằm sương". Nhà thơ Huy Cận tâm tình: "Chiếu chăn không ấm người nằm một/ Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay". Đầu mình gối lấy tay mình. Cô độc quá. Ôi, đành vậy. Tự an ủi mình rơi vào hoàn cảnh này, còn may mắn hơn ai kia:
Cổ tay em trắng lại tròn
Để cho ai gối đã mòn một bên
Từ mòn trong ngữ cảnh này, nói lên điều gì? Nếu không phải là cô ấy đã có chồng? Đã có người khác?
Ca dao còn có câu: "Một mai trống thủng khó hàn/ Dây dùn khó đứt, bạn lan khó tìm". Bạn lan là bạn ra làm sao? Theo “Việt Nam tự điển” (1970) do Lê Văn Đức biên soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính: "Bạn lan: Bạn tốt, bạn quý"; “Phương ngữ Nam Bộ” của Nam Chi Bùi Thanh giải thích: "Người bạn quân tử đáng quý như hoa lan". Từ này, nay không mấy ai sử dụng nữa, kể cả "bạn ngọc": "Mặt đất láng nguyên tự nhiên cây cỏ mọc/ Bởi phận tôi nghèo, bạn ngọc có đôi", “Đại từ điển tiếng Việt” (1999) không ghi nhận, đã thay thế bằng bạn lòng, bạn vàng, bạn tình.
2.Trở lại với câu cửa miệng: "Nói chuyện với đầu gối", ta hiểu là nói với cái đầu gối của mình. "Gối" ở đây lại là "Khoanh tay bó gối", "Mỏi gối chồn chân"; "Ví dù theo thói người ta/ Uốn lưng, co gối cũng nhơ một đời" (Nhị độ mai). Cũng đầu gối của mình nhưng ít ai biết rằng ngày xửa ngày xưa của cái thuở săn bắt còn thả cửa chưa có luật lệ nghiêm cấm, đại khái khi người chồng rời nhà đi theo nhóm vào rừng dụ voi, săn voi thì người vợ ở nhà lại có lúc không đụng đến… đầu gối. Tại sao?
Phóng sự “Nghề dụ dỗ voi rừng” của Duy Thanh in trên tuần báo Tân Văn tại Nam Kỳ số 30 ra ngày 9/3/1935 có đoạn: "Vợ ở nhà kiêng cử đủ điều, nhứt là phải hết sức trung tín với chồng. Không được quét nhà chải đầu cùng giũ mùng giũ chiếu. Bẻ củi mà chụm thì không được để lên đầu gối mà bẻ. Người ta cho rằng đầu gối giống hình đầu tượng (voi). Để củi trước gối mà bẻ thì chẳng khác nào đem chồng mình để trước đầu tượng vậy". Chi tiết kiêng cử này thú vị quá, âu cũng là cái thú của việc nhâm nhi báo chí thời trước.
Dám nói rằng, đầu gối của mình, mình ôm lúc nào chẳng mà được, còn đầu gối của nhà vua thì sao? Có ôm được không? Ơ hay làm gì có chuyện đó, có mà vuốt râu hùm, giỡn mặt à? Chớ dại.
Thế mà có đấy. Lần đầu tiên, vào tháng 6/1835 ở Việt Nam có lễ ôm đầu gối do vua Minh Mạng đặt ra, gọi là bão tất - "bão" là ôm lấy, "tất" là đầu gối. Sở dĩ như thế là do ròng rã suốt 3 năm trời gian khổ khó nhọc, quân tướng triều Nguyễn mới dẹp được cuộc chống đối của các dân tộc ít người vùng Tây Bắc do Nông Văn Vân - thổ ty châu Bảo Lạc cầm đầu.
Sự kiện này “Đại Nam thực lục” ghi chép lúc Nông Văn Vân lẻn về núi Thẩm Bát, xã An Quang: "Chỗ này, thế núi cheo leo, cây cỏ rậm rạp bát ngát, khó lùng tìm khắp cả được. Ngày đã về chiều. (Vệ úy Chư quân Nguyễn Văn) Quyền sợ Vân chạy thoát mất, bèn phóng lửa đốt cả bốn mặt chỗ ấy. Bấy giờ gió thổi mạnh, lửa cháy dữ, trong chốc lát, cỏ tranh, bụi nứa trở thành tro cả. Vân ở kẽ đá, đột nhiên xông ra, bị lửa đốt chết, rơi xuống sườn núi, bên mình có 1 đĩnh lớn vàng tốt và 1 thanh đao trang sức vàng bạc.
Lũ (Phạm Văn) Điển trước đệ cờ đỏ phi báo tin thắng trận (trong cờ viết những chữ "chém được thủ nghịch Nông Văn Vân"). Rồi bỏ đầu Vân vào hòm phi dâng dưới cửa khuyết. Còn thây Vân thì treo ngược trên cần cao, cắm ở đỉnh núi Vân Trung. Người người đều hả lòng". Khi nhận tin báo thắng trận, vua Minhh Mạng đẹp lòng, bảo quan hầu rằng: "Đêm qua, ta nằm không yên, trong lòng cho rằng tất có việc gì sẽ xảy đây, chẳng ngờ ngày nay có tin báo mừng này. Đó thực nhờ trời đất phù hộ, ta kính cẩn cảm kích xiết bao". Ngài còn phê mấy câu thơ (tạm dịch):
Tội lớn, đất trời không dung thứ
Nhờ ơn trời, kẻ ác phanh thây
Quân tướng rày nghỉ ngơi mừng rỡ
Dân tình yên gối kể từ đây
"Yên gối" là kê đầu lên gối mà ngủ, ngụ ý ngon giấc. Ngoài việc thưởng rất hậu, nhà vua còn xuống Dụ: "Nay cho bộ Lễ bày nghi lễ, chọn ngày tốt, trẫm ngự ở cửa Đại Cung, cho các quan đại thần lui quân về vào chầu và cho Phạm Văn Điển, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức làm lễ ôm gối để tỏ ý trẫm coi như Hoàng tử vui đùa dưới gối. Đây là cái lễ trẫm mới nghĩ ra, mà vì tình thì rất thân yêu, ở chỗ tình lễ vua tôi, không còn gì hơn nữa. Đó là lễ do ta bắt đầu đặt ra, kể về tình, rất là thân ái. Tình và lễ giữa vua và tôi không gì hơn được nữa".
Về lễ này, tóm tắt ghi chép chi tiết của “Đại Nam thực lục”, ta hình dung ra là trong lễ ấy, Đề đốc Phạm Văn Điển giắt hốt vào đai, đi bằng đầu gối, tiến lên, vua duỗi một chân ra, Điển chìa hai tay ôm lấy, ngẩng lên, khấu đầu một cái. Được đặc chỉ ban khen và thưởng, Điển liền giơ lên trán, nhận lĩnh, rồi lại khấu đầu một cái, đi bằng đầu gối lui ra đến chỗ phủ phục trước, cầm hốt, lại khấu đầu một lần nữa, rồi rảo bước đi ra. Thứ đến, những người sau cũng theo nghi tiết này.
Xin giải thích vài từ cổ, "khấu đầu" là cúi rạp xuống, rập đầu xuống đất; về từ "hốt", tục ngữ có câu "Đai vàng hốt bạc", “Hán - Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng giải thích: "Hốt: Tấm thẻ thật lớn, thời cổ làm bằng tre, sau làm bằng ngà voi, các quan cầm ở tay khi vào triều, muốn tâu điều gì với vua thì viết lên tấm hốt đó". Ơ hay, tại sao không tâu trực tiếp với nhà vua, mà phải viết lên tấm hốt? “Hán-Việt tự điển” của Thiều Chửu cho biết: "để phòng cho khỏi quên".
Lê Minh Quốc