Nằm bên dòng sông Chu hiền hòa, Bản Mạ trước đây thuộc khu phố Thanh Xuân, thị trấn Thường Xuân nay là xã Thường Xuân, cách trung tâm tỉnh Thanh Hóa khoảng 60 km về phía Tây.
Cầu treo bắc qua sông Chu - “cầu nối” đưa Bản Mạ (xã Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) từ bản làng biệt lập trở thành điểm du lịch cộng đồng hấp dẫn
Bản hiện có 57 hộ dân với 246 nhân khẩu, 100% là đồng bào dân tộc Thái. Ít ai ngờ rằng, nơi nay rộn ràng tiếng bước chân du khách ấy từng là một bản nghèo, biệt lập, giao thông cách trở, cuộc sống người dân quanh năm quẩn quanh với nương rẫy, sông nước.
Ngày ấy, để sang bờ bên kia sông Chu, người dân Bản Mạ phải dùng bè mảng, thuyền nhỏ. Mỗi chuyến vượt sông là một lần đối mặt với hiểm nguy, nhất là mùa mưa lũ. Sự biệt lập khiến giao thương hạn chế, đời sống khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao.
Bước ngoặt chỉ thực sự đến vào năm 2016, khi cây cầu treo bắc qua sông Chu hoàn thành và đưa vào sử dụng. Cây cầu không chỉ nối đôi bờ sông, mà còn mở ra cánh cửa để Bản Mạ hòa mình vào nhịp phát triển chung.
Trình diễn văn hóa dân gian của đồng bào dân tộc Thái tại Lễ hội văn hóa ở Bản Mạ, góp phần tôn vinh bản sắc truyền thống và tạo điểm nhấn thu hút du khách đến với du lịch cộng đồng địa phương
Từ đó, cùng với sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước, Bản Mạ dần chuyển mình. Từ một bản thuần nông nghèo khó, nơi đây từng bước trở thành bản du lịch cộng đồng “hút” khách, được nhắc đến như một điểm sáng trong phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa của xã miền núi Thanh Hóa.
Khi văn hóa trở thành “tài sản”
Điều làm nên sức hấp dẫn riêng có của Bản Mạ chính là bản sắc văn hóa Thái được gìn giữ khá nguyên vẹn. Trong bản hiện còn hơn 30 ngôi nhà sàn cổ, mái lợp cọ, sàn gỗ, cầu thang gỗ mòn theo dấu thời gian. Những ngôi nhà ấy không chỉ là chỗ ở, mà còn là “không gian văn hóa sống”, nơi lưu giữ phong tục, tập quán, nếp sinh hoạt của bao thế hệ.
Với người Thái ở Bản Mạ, đời sống tinh thần gắn chặt với quan niệm “vạn vật hữu linh”. Họ tin rằng, con người sống hài hòa với thiên nhiên, với thần linh thì bản làng mới yên vui, mùa màng mới tốt tươi.
Bởi thế, trong các dịp lễ, tết, người dân vẫn giữ những nghi lễ truyền thống: thờ hòn đá, mời con trâu, cái cày cùng “ăn cỗ” ngày tết, hay trước những công việc lớn của bản làng đều phải làm lễ “xin phép” thần linh. Những tập tục ấy, khi được kể lại trong không gian nhà sàn, bên bếp lửa hồng, đã trở thành câu chuyện hấp dẫn đối với du khách.
Những ngôi nhà sàn truyền thống của đồng bào Thái ở Bản Mạ được gìn giữ nguyên vẹn, trở thành không gian sinh hoạt và homestay phục vụ du khách
Ẩm thực cũng là “điểm cộng” lớn của Bản Mạ. Trong bữa cơm của người Thái, hạt gạo, đặc biệt là gạo nếp luôn được trân quý. Xôi nếp nương là món ăn không thể thiếu. Gạo trồng trên ruộng cạn, hạt không bóng bẩy, nhưng khi đồ xôi lại dẻo dai, để nguội vẫn thơm ngon.
Vào dịp lễ, tết, mâm cúng không thể thiếu xôi ngũ sắc, với màu sắc được nhuộm hoàn toàn từ lá cây, quả rừng, vừa đẹp mắt vừa mang ý nghĩa tâm linh.
Bên cạnh đó là các món cá, tôm sông Chu, các món nướng đậm hương núi rừng. Gian bếp của người Thái Bản Mạ không có chỗ cho gia vị công nghiệp; thay vào đó là mắc khén, hạt dổi, các loại lá rừng - những thứ tạo nên hương vị rất riêng, khó quên.
Với du khách, được cùng người dân chuẩn bị bữa ăn, nghe họ kể chuyện núi rừng, sông nước, chính là một trải nghiệm văn hóa trọn vẹn.
Tiết mục múa truyền thống của đồng bào dân tộc Thái tại Lễ hội mừng cơm mới ở Bản Mạ
Không gian văn hóa Bản Mạ còn được bồi đắp bởi các sinh hoạt cộng đồng. Sau một ngày lao động, đêm xuống, người dân quây quần bên bếp lửa, “khặp” cho nhau nghe những câu hát cổ, những lời mời, lời chào từ thuở cha ông.
Vào dịp lễ, tết, tiếng cồng chiêng, khua luống lại vang lên, hòa cùng điệu múa, trò diễn dân gian. Những tri thức bản địa như bài thuốc hay, vị thuốc quý cũng được lặng lẽ trao truyền qua các thế hệ, tạo nên chiều sâu văn hóa cho bản làng.
Du lịch cộng đồng - con đường đi chậm mà chắc
Xác định phát triển du lịch cộng đồng là hướng đi phù hợp, Bản Mạ lựa chọn cách làm bài bản, bền vững. Cùng với việc định hướng cho người dân, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện để các hộ trong bản tham quan, học hỏi mô hình du lịch cộng đồng nổi tiếng trong và ngoài tỉnh như Pù Luông (Thanh Hóa), bản Lác (Hòa Bình).
Người dân được tập huấn kỹ năng đón tiếp, phục vụ khách, vệ sinh môi trường, cảnh quan, kỹ năng nấu ăn phù hợp với nhiều đối tượng du khách.
Từ những lớp tập huấn ấy, nhiều hộ dân mạnh dạn chuyển đổi sinh kế. Từ chỗ chỉ quen với ruộng nương, họ đầu tư xây dựng homestay, khu dịch vụ du lịch. Điển hình là gia đình anh Lữ Văn Tính, chủ homestay Ẩm thực Tính Tuyến, một trong những hộ đầu tiên làm du lịch cộng đồng ở Bản Mạ.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở Bản Mạ được phục dựng và gìn giữ, góp phần tạo điểm nhấn hấp dẫn cho du lịch cộng đồng địa phương
Sinh ra trong gia đình thuần nông, cuộc sống từng chồng chất khó khăn, năm 2017 anh Tính mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư. Không có kinh nghiệm, anh đi nhiều nơi như Pù Luông, Mộc Châu để học hỏi, tham gia các lớp tập huấn do huyện tổ chức. Từ đó, anh xây dựng 2 căn nhà sàn với 3 phòng ăn, 3 phòng nghỉ, có thể phục vụ khoảng 50 mâm khách mỗi lượt.
“Trước đây vợ chồng tôi đi làm ăn xa, sau khi được địa phương định hướng, chúng tôi quyết định ở lại quê nhà làm du lịch. Dù có thời điểm bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nhưng nhìn chung thu nhập vẫn ổn định hơn so với đi làm xa”, anh Tính chia sẻ.
Quan trọng hơn, mô hình homestay đã giúp gia đình anh có điều kiện chăm lo cho con cái và tạo việc làm ổn định cho một số lao động trong bản.
Không chỉ riêng gia đình anh Tính, nhiều hộ dân khác ở Bản Mạ cũng mạnh dạn vay vốn đầu tư nhà sàn, phòng nghỉ, tham gia chuỗi dịch vụ du lịch khép kín.
Khi đêm xuống, du khách được hòa mình vào không gian văn nghệ dân gian với các tiết mục do đồng bào dân tộc Thái Bản Mạ biểu diễn
Gia đình anh Luyến, thành viên Hợp tác xã Dịch vụ du lịch Bản Mạ còn thử nghiệm mô hình trồng rau sạch với diện tích khoảng nửa héc-ta, kết hợp trồng hoa hướng dương làm điểm check-in cho du khách. Dù mới vụ đầu, nhưng mô hình này được đánh giá là hướng đi hiệu quả, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
Nhờ cách làm đồng bộ, 5 năm gần đây, du lịch Bản Mạ đã được kết nối vào hệ thống tour, tuyến của tỉnh và cả nước. Huyện Thường Xuân tổ chức Lễ hội Mừng cơm mới, Tuần lễ Văn hóa - Thể thao - Du lịch hằng năm tại Bản Mạ, gắn với Khu di tích lịch sử - văn hóa Cửa Đặt.
Từ đầu năm 2025 đến nay, Bản Mạ đã đón trên 30.000 lượt du khách, doanh thu đạt trên 3 tỉ đồng, con số ấn tượng với một bản làng miền núi.
Ẩm thực truyền thống của người Thái ở Bản Mạ với các món nướng, cá sông Chu, rau rừng và măng rừng, mang đậm hương vị núi rừng xứ Thanh, hấp dẫn du khách trải nghiệm du lịch cộng đồng
Sức hút của Bản Mạ còn đến từ vị trí thuận lợi khi nằm trong không gian du lịch rộng lớn của huyện Thường Xuân (cũ). Du khách có thể kết nối tham quan Khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, nơi có hệ sinh thái rừng nguyên sinh đa dạng với hàng nghìn loài động, thực vật quý hiếm; du thuyền ngắm cảnh lòng hồ Cửa Đạt, ngược dòng sông Chu; khám phá hệ thống thác nước, hang động, di tích lịch sử, lễ hội văn hóa dân gian đặc sắc.
Những tuyến du lịch được xây dựng bài bản, như tuyến về nguồn sông Chu kết hợp nghỉ đêm tại Bản Mạ, đã góp phần đưa bản làng này trở thành điểm dừng chân không thể thiếu trong hành trình khám phá miền Tây Thanh Hóa.
Chia sẻ cảm nhận sau chuyến trải nghiệm, chị Nguyễn Thị Hạnh, du khách đến từ Hà Nội cho biết: “Tôi ấn tượng nhất với không gian yên bình và sự mộc mạc của người dân Bản Mạ. Được ở nhà sàn, ăn cơm cùng chủ nhà, nghe kể chuyện về phong tục, tập quán của người Thái khiến chuyến đi trở nên rất đáng nhớ”.
Còn anh Lê Văn Minh, du khách đến từ phường Hạc Thành (Thanh Hóa) nhận xét: “Bản Mạ vẫn giữ được vẻ nguyên sơ hiếm có. Các hoạt động trải nghiệm văn hóa, ẩm thực và đi dạo ven sông Chu mang lại cảm giác thư giãn, khác hẳn nhịp sống đô thị”.
Từ một bản nghèo bên dòng sông Chu, Bản Mạ hôm nay đã khoác lên mình diện mạo mới: trù phú hơn, sinh động hơn, nhưng vẫn giữ được hồn cốt văn hóa truyền thống.
TRẦN HOÀNG