Vẻ đẹp của những thửa ruộng bậc thang ở bản Ngàm.
Con đường bê tông men theo triền núi dẫn tôi về bản Ngàm. Hai bên là màu xanh miên man của rừng, của ruộng, và thấp thoáng những nếp nhà sàn cổ nằm nép mình bên núi. Dòng sông Luồng uốn lượn như dải lụa mềm, vừa là nguồn nước, vừa là mạch sống của bản.
Ông Lương Văn Duẩn, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng bản Ngàm, đón tôi bằng nụ cười hiền hậu. “Người Thái chiếm hơn 80% dân số ở đây. Từ khi được công nhận là điểm du lịch cấp tỉnh năm 2019, bà con bắt đầu mở cửa đón khách. Chúng tôi xác định du lịch cộng đồng là hướng đi bền vững: vừa làm kinh tế, vừa giữ văn hóa của dân mình”.
TỪ NGƯỜI NÔNG DÂN THÀNH CHỦ NHÀ DU LỊCH
Bản Ngàm hiện có 75 hộ dân, trong đó 23 hộ đăng ký làm du lịch, 11 hộ đủ điều kiện đón khách lưu trú. Những năm qua, nhờ được tập huấn, hướng dẫn và vay vốn cải tạo nhà cửa, nhiều hộ đã mạnh dạn chuyển đổi sinh kế, coi du lịch là nghề chính.
Phụ nữ Thái ở Bản Ngàm biểu diễn tiết các điệu múa truyền thống phục vụ khách du lịch.
Một trong những người tiên phong là chị Lữ Thị Nguyện. Trong gian nhà sàn rộng, chị tất bật nấu bữa tối cho đoàn khách từ Hà Nội vừa tới. “Trước đây chỉ làm nông nghiệp, quanh năm lo vụ mùa. Khi xã vận động, tôi vay 500 triệu đồng cải tạo nhà sàn, mua sắm chăn đệm, vật dụng. Ban đầu lo lắm, sợ không ai đến. Nhưng giờ nhà tôi có thể phục vụ 25 – 30 khách mỗi ngày, thu nhập ổn định, trả được nợ, còn có vốn tích góp”.
Bên hiên nhà, gió sông Luồng thổi qua, mang theo mùi lúa mới, mùi khói bếp, nghe ấm lạ. Ở góc sân, bà Vi Thị Doanh đang miệt mài bên khung cửi. Đôi tay bà thoăn thoắt đưa thoi dệt nên tấm thổ cẩm sặc sỡ.
“Ngày xưa, con gái Thái ai cũng biết dệt. Giờ khách du lịch đến thích mua khăn, túi, tấm vải dệt tay, nên chị em lại học nghề cũ. Mỗi tấm vải là một phần hồn của bản,” bà Doanh kể, giọng đầy tự hào.
Phụ nữ Thái ở Bản Ngàm gìn giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống, tạo sản phẩm phục vụ du lịch cộng đồng.
Không chỉ dệt vải, bà còn mở lớp dạy nghề miễn phí cho phụ nữ trong bản. Từ những tấm vải thủ công ấy, người Thái ở Ngàm đang giữ lại nghề truyền thống, đồng thời tạo thêm thu nhập – một cách làm du lịch vừa mộc mạc vừa nhân văn.
GIỮ HỒN BẢN CỔ, GỢI MỞ HƯỚNG SINH KẾ MỚI
Chiều buông, bản Ngàm hiện lên rực rỡ trong ánh nắng vàng nhạt. Con đường đất lầy lội ngày nào nay đã được đổ bê tông sạch đẹp. Dọc bờ sông, những cầu tre, bè mảng phục vụ du khách được dựng lên. Bãi cỏ xanh mướt, những hàng rào hoa dâm bụt đỏ rực tạo thành khung cảnh thơ mộng như bức tranh.
Ông Phạm Văn Tình, Chủ tịch UBND xã Sơn Điện, tâm sự: “Bản Ngàm là điểm sáng của xã trong phát triển du lịch cộng đồng. Người dân đã biết tận dụng lợi thế thiên nhiên, giữ gìn bản sắc để thu hút khách. Tuy nhiên, vẫn cần hỗ trợ thêm về kỹ năng, cơ sở vật chất và đa dạng hóa sản phẩm để phát triển lâu dài”.
Phụ nữ Thái ở Bản Ngàm thay vì làm nông nghiệp nay được đào tạo để trở thành những "hướng dẫn viên" du lịch bản địa.
Đến hết tháng 9/2025, bản Ngàm đã đón hơn 8.500 lượt khách tham quan, nghỉ dưỡng. Con số ấy chưa nhiều, nhưng là tín hiệu cho một hướng đi đúng. Nhiều du khách tìm đến để tắm suối, đi bè tre, xúc cá bên sông, trải nghiệm cuộc sống của đồng bào Thái và Mường.
Trong ánh lửa bập bùng buổi tối, tôi gặp Nguyễn Thị Minh Hà, du khách đến từ Hà Nội. Chị chia sẻ: “Ở đây, tôi như được sống chậm lại. Mọi thứ giản dị, trong lành. Tôi thích nhất là được cùng người dân ra suối xúc cá, rồi buổi tối ngồi bên bếp lửa, ăn xôi nếp, nghe hát Thái. Cảm giác ấm áp và chân thật vô cùng”.
Bản Ngàm hôm nay – hòa giữa truyền thống và nhịp sống mới từ du lịch cộng đồng.
Ngồi bên cạnh chị Hà là Edward Turner, du khách người Anh. Anh nói bằng tiếng Việt chưa sõi nhưng ánh mắt rạng rỡ: “Tôi từng đến nhiều nơi, nhưng bản Ngàm rất đặc biệt. Tôi cảm nhận được sự kết nối giữa con người và thiên nhiên. Ở đây, du lịch không chỉ là nghỉ ngơi – mà là chia sẻ văn hóa”.
Khi đêm xuống, tiếng khèn, tiếng trống và điệu xòe Thái rộn ràng bên ánh lửa. Du khách và người dân cùng nhảy múa, uống rượu cần, hòa vào nhau trong tiếng cười giòn tan. Trên cao, ánh trăng soi xuống dòng sông Luồng lấp lánh, như chứng kiến một bản làng đang hồi sinh.
VẺ ĐẸP BỀN LÂU GIỮA NÚI RỪNG
Điều khiến tôi ấn tượng nhất ở bản Ngàm là những nhà sàn Thái cổ còn nguyên vẹn hàng trăm năm tuổi. Nhà dựng bằng gỗ quý, mái lá cọ, sàn cao thoáng, không chỉ là nơi ở mà còn là biểu tượng văn hóa. Ngồi bên bếp lửa, nghe già làng kể chuyện xưa, tôi hiểu hơn nếp sống của người Thái – tôn trọng thiên nhiên, yêu lao động, gắn bó với cộng đồng.
Ẩm thực bản Ngàm cũng là điểm níu chân du khách: mâm cơm giản dị mà đậm đà với xôi nếp nương dẻo thơm, cá sông nướng, canh uôi, lợn mán quay, rau rừng chấm chẻo. Mỗi món ăn là sự hòa quyện giữa tinh tế và tự nhiên.
Ẩm thực bản Ngàm cũng là yếu tố níu chân du khách.
“Chúng tôi mong bản Ngàm không chỉ là điểm du lịch cộng đồng, mà còn là mô hình bảo tồn văn hóa sống động,” ông Phạm Văn Tình nói. “Du khách đến đây không chỉ ngắm cảnh, mà còn cảm nhận được tâm hồn con người vùng cao.”
Đêm Sơn Điện lặng lẽ. Ánh trăng rải dài trên dòng sông Luồng, tiếng suối róc rách xen lẫn tiếng khèn xa vọng lại. Bản Ngàm vẫn đang đổi thay từng ngày rất nhẹ nhàng, bền bỉ như chính nhịp sống bình yên mà con người nơi đây đang dệt nên giữa đại ngàn.
Nguyễn Thuấn