Bán sầu riêng: một góc nhìn khác

Bán sầu riêng: một góc nhìn khác
một ngày trướcBài gốc
Đây là việc cần xem xét lại, bởi đẩy “rủi ro” sang người tiêu dùng nhằm giảm thiệt hại về tài chính của đơn vị xuất khẩu là vấn đề nghiêm trọng…
Thu hoạch sầu riêng tại một nhà vườn ở ĐBSCL. Ảnh: Văn Cộng
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tại hội nghị phát triển ngành hàng sầu riêng bền vững diễn ra mới đây theo hình thức trực tuyến, cho biết bốn tháng đầu năm, Việt Nam vẫn là nhà cung cấp sầu riêng lớn thứ hai cho Trung Quốc, nhưng sụt giảm 71,3% về lượng và 74% về kim ngạch so cùng kỳ. Thị phần sầu riêng Việt Nam tại Trung Quốc đã giảm từ 42,1% năm 2024 xuống còn 28,2% như hiện nay.
Rõ ràng, việc “siết” quản lý chất lượng là nguyên nhân chính khiến sầu riêng Việt Nam gặp khó khi bán sang Trung Quốc. Tuy nhiên, để được cấp “giấy thông hành”, doanh nghiệp cũng như ngành hàng sầu riêng bị tác động khá nhiều khi chi phí kiểm nghiệm tăng rất cao.
Phí kiểm nghiệm tăng sốc
Ông Vũ Phi Hổ, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần sầu riêng Tây Nguyên (Sarita), đơn vị có 4 năm tham gia sân chơi này, cho biết chi phí kiểm nghiệm sầu riêng xuất khẩu tăng cao là gánh nặng không nhỏ đối với doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này nói riêng và ngành hàng sầu riêng nói chung.
Theo đó, nếu năm 2024, phí kiểm nghiệm cho mỗi mẫu sầu riêng chỉ 400.000 đồng, thì năm nay đã vọt lên mức 40 triệu đồng/container. “400.000 đồng và 40 triệu đồng là con số chênh lệch quá lớn”, ông Hổ nói và cho biết, nếu như đơn vị này xuất khẩu 200 container/năm, thì riêng tiền hóa nghiệm mất 8 tỉ đồng.
Trao đổi với KTSG Online, Giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng đề nghị không nêu tên ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) dù không nêu con số cụ thể, nhưng khẳng định chi phí kiểm nghiệm sầu riêng đã tăng mạnh so với năm ngoái.
Theo vị doanh nghiệp này, giá sẽ được tính vào chi phí cấu thành của sản phẩm, tức sẽ giảm giá khi mua sầu riêng đầu vào từ người nông dân.
Trong khi đó, trao đổi với KTSG Online, ông Đinh Hoàng Thiện, Tổng giám đốc Công ty TNHH Công nghệ NHONHO, một trong những đơn vị thực hiện dịch vụ hóa nghiệm cấp giấy “thông hành” cho sầu riêng xuất khẩu (hiện đang tạm dừng), cho biết hai chỉ tiêu được xét nghiệm là Cadimi và Vàng O.
Dĩ nhiên, ngoài hai chỉ tiêu trên, sầu riêng xuất khẩu còn phải tuân thủ các quy định chung về điều kiện kiểm dịch thực vật đã được ký kết trong nghị định thư giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Giải thích lý do chi phí kiểm nghiệm tăng, theo ông Thiện, tùy đơn vị, nhưng do đơn vị kiểm nghiệm phải đi lấy mẫu giám định, đóng seal container và số mẫu được lấy tăng. “Trước đây đơn vị xuất khẩu lấy một trái sầu riêng lại phòng thí nghiệm gửi thì giá khác, còn bây giờ đơn vị kiểm định đi giám định container hàng, giám sát đóng container, đóng seal, số lượng mẫu lấy nhiều, có khi 10-20 mẫu/container nên tăng giá lên”, ông giải thích.
Việc thay đổi quy trình thực hiện như nêu trên, bởi cách thức triển khai trước đó (thử 1-2 mẫu để kiểm tra lô hàng) đã xảy ra tình trạng lô hàng vẫn bị nhiễm khi xuất khẩu, dẫn đến một số đơn vị thực hiện dịch vụ kiểm nghiệm bị Trung Quốc tạm dừng.
Số liệu từ Hải quan Việt Nam, cho biết riêng ba tháng đầu năm nay, tổng lượng sầu riêng tươi xuất khẩu đạt trên 26.800 tấn. Điều này có nghĩa, với con số bình quân khoảng 20 tấn/container loại 40 feet (thông thường ở mức 18-20 tấn/container), ba tháng đầu năm nay đã xuất khẩu tương đương 1.340 container sầu riêng.
Như vậy, nếu tính toán một cách tương đối, riêng chi phí hóa nghiệm trong ba tháng đầu năm của ngành hàng sầu riêng là 53,6 tỉ đồng. Điều này có nghĩa, với 26.800 tấn (tương đương 26,8 triệu kí lô gam) sầu riêng xuất khẩu, thì mỗi kí lô gam gánh 2.000 đồng chi phí hóa nghiệm để có giấy “thông hành”.
Ngoài chi phí xét nghiệm, còn nhiều chi phí khác để cấu thành sản phẩm trước khi đưa đi xuất khẩu như: bao bì, bảo quản lạnh... Trong khi đó, việc xuất khẩu sầu riêng gặp khó đã tác động trực tiếp đến người nông dân là một thực tế đang diễn ra.
Hiện sầu riêng RI 6 tại vườn được thương lái mua xô có giá trên dưới 35.000 đồng/kg và 50.000-55.000 đồng/kg đối với giống sầu riêng Thái.
Có trường hợp hàng bị trả về bán "giải cứu" nội địa!
Dù chi phí và số mẫu được lấy tăng xét nghiệm tăng, nhưng thực tế không phải 100% lô hàng có giấy xác nhận đều được thông quan đến tay người tiêu dùng, tức có lô hàng đã phải quay đầu trở lại nội địa khi làm thủ tục thông quan do bị phát hiện không đảm bảo an toàn thực phẩm.
Ông Hổ của Sarita nêu thực trạng, khi sầu riêng xuất đi Trung Quốc bị trả về do nhiễm Cadimi hay chất Vàng O, có đơn vị đem bán cho người tiêu dùng nội địa với hình thức… “giải cứu”. “Đấy là đầu độc, chứ làm gì còn kinh doanh ở đây nữa”, ông nhấn mạnh khi nói.
Khi gõ cụm từ “giải cứu sầu riêng” trên công cụ tìm kiếm của Google, hàng loạt hình ảnh, tin bài đã xuất hiện, trong đó, nhiều hình ảnh ghi lại cảnh sầu riêng từ container, có đóng gói đầy đủ (hàng xuất khẩu) được bán lại cho người tiêu dùng trong nước với giá rẻ.
Dĩ nhiên, không phải tất cả sầu riêng được bán ở thị trường nội địa đều là hàng xuất khẩu bị trả về. Bởi lẽ, như ở khu vực miền Nam, sản phẩm bán dọc theo lề đường là hàng dạt, tức sản phẩm được loại ra từ đầu khi các vựa thu mua hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, dù xảy ra ở mức độ nào, rõ ràng cần nhìn sầu riêng là một loại hàng hóa và cần có sự tôn trọng đối với cả người tiêu dùng trong nước, tức sản phẩm khi đem ra thị trường phải đảm bảo an toàn về mặt chất lượng.
Mong muốn giảm thiệt hại về mặt tài chính khi lô hàng không may bị trả về là điều có thể hiểu cho doanh nghiệp. Thế nhưng, kéo người tiêu dùng gánh lấy rủi ro về mặt sức khỏe để đổi lấy giảm thiệt hại về kinh tế là điều khó chấp nhận.
Trước bối cảnh nêu trên, theo ông Hổ, khi sản phẩm đưa ra thị trường, các tác nhân tham gia chuỗi ngành hàng sầu riêng đều phải chịu trách nhiệm nhiệm với người tiêu dùng, kể cả người tiêu dùng trong nước.
Muốn vậy, bà Ngô Tường Vy, Giám đốc điều hành Công ty cổ phần tập đoàn xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu, nhấn mạnh để nâng cao quyền lợi người tiêu dùng, bản thân mỗi người trong chuỗi giá trị ngành hàng sầu riêng phải tự ý thức hoàn thiện lại công việc đang làm, bao gồm nông dân, doanh nghiệp và cả sự quản lý của địa phương, bộ ngành liên quan. “Đây cũng là bước đi trước để sau những 'vấp ngã' từ cảnh báo Cadimi, Vàng O, ngành sầu riêng sẽ kiểm soát tốt dù có bất cứ rào cản nào trong tương lai”, bà Vy cho biết.
Đồng quan điểm, ông Mai Xuân Thìn, Giám đốc Công ty TNHH Rồng Đỏ, gợi ý hệ thống sản xuất, từ vùng trồng đến thu mua, sơ chế, đóng gói và xuất khẩu phải chủ động kiểm soát rủi ro ở từng công đoạn để sản phẩm đạt chất lượng.
Với khâu sản xuất, theo gợi ý của ông Hổ, những địa phương/khu vực kiến thiết vùng nguyên liệu mới, tức người nông dân chưa có kinh nghiệm sản xuất sầu riêng, nhất là về kiểm soát về dư lượng, thì nên có chương trình trang bị kiến thức cho người nông dân.
Việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu hiện nay cho sầu riêng không đồng nhất, trong khi dữ liệu từ các vùng trồng không được được cập nhật là một khó khăn rất lớn. “Thực trạng mở rộng vùng trồng hiện nay không đi kèm với năng lực canh tác là một điều rất mạo hiểm”, ông Hổ nhấn mạnh và yêu cầu phải thay đổi.
Từ năm 2015 đến 2024, diện tích sầu riêng đã tăng từ 32.000 héc ta lên 178.000 héc ta, tức mỗi năm Việt Nam có thêm khoảng 16.300 héc ta diện tích được mở mới, theo Cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật.
Rõ ràng, việc rà soát, đánh giá lại nhằm chuẩn hóa ngành hàng sầu riêng là điều cần thiết để tạo điều kiện cho sản phẩm đạt chất lượng, phục vụ tốt cho cả thị trường xuất khẩu lẫn người tiêu dùng trong nước.
Báo cáo của Cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho thấy Việt Nam đã gửi 1.604 mã số vùng trồng đối với sầu riêng và Tổng Cục hải quan Trung Quốc (GACC) phê duyệt 1.527 mã số, nhưng có 1.396 mã số đang hoạt động, tức có 141 mã số đã bị tạm dừng.
Tương tự, với mã số cơ sở đóng gói, Việt Nam đã gửi 314, được GACC phê duyệt 299 mã số, nhưng đang hoạt động 188, tức có 111 mã số cơ sở đóng gói bị tạm dừng.
Trung Chánh
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/ban-sau-rieng-mot-goc-nhin-khac/