Bàn thêm về phát triển điện năng lượng mới, điện tái tạo trong Nghị định 58 (Bài 1)

Bàn thêm về phát triển điện năng lượng mới, điện tái tạo trong Nghị định 58 (Bài 1)
6 giờ trướcBài gốc
Trong bài viết này, các văn bản được tham khảo và đề cập gồm:
Luật Điện lực được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 11 năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 02 năm 2025.
Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, đang được thông báo lấy ý kiến nhận xét phản biện rộng rãi.
Nghị định số: 58/2025/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2025 Quy định chi tiết một số điều của Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới.
Sự cần thiết của việc chuyển đổi sử dụng năng lượng mới (NLM) và năng lượng tái tạo (NLTT) để sản xuất điện
Sự cần thiết của việc chuyển đổi sản xuất điện từ các nguồn năng lượng/nhiên liệu truyền thống (thủy điện, điện nhiên liệu hóa thạch) sang sử dụng NLM, NLTT là xu thế chung toàn cầu do các nguyên nhân: (1). Nguồn năng lượng thủy điện và nguồn năng lượng hóa thạch có hạn và một số loại có thể cạn kiệt nhanh trong tương lai gần; (2). Sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch phát thải quá nhiều chất khí nhà kính (KNK) gây nên biến đổi khí hậu (BĐKH) và chất ô nhiễm không khí gây suy giảm chất lượng không khí, thậm chí ô nhiễm không khí ở nhiều nơi trên hành tinh của chúng ta. Các hội nghị quy mô toàn cầu, quy mô liên quốc gia về BĐKH luôn kêu gọi hạn chế và tiến tới chấm dứt sử dụng than đá để phát điện.
Ở Việt Nam, Chính phủ và dân chúng, doanh nghiệp cũng nhận thức được vấn đề nên đã có những quy hoạch, kế hoạch hạn chế điện chạy bằng than đá, tìm mọi cách giảm phát thải KNK và đỉnh điểm là cam kết tại COP26 sẽ đạt phát thải ròng KNK bằng không (NetZero) vào năm 2050. Tất nhiên, các ngành, các địa phương đều phải vào cuộc để thực hiện cam kết này nhưng ngành điện phải là ngành chủ đạo, ngành phải giảm phát thải KNK ở mức cao nhưng vẫn phải đảm bảo tăng trưởng sản lượng điện để đáp ứng tăng trưởng GDP nhanh trong những năm tới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Rất may là Việt Nam có tiềm năng khá lớn về 2 NLTT chính là năng lượng gió (NLG) và năng lượng bức xạ mặt trời (BXMT) nên có thể đảm bảo chuyển đổi sản xuất điện sang sử dụng hai loại NLTT này một cách khá dễ dàng, nhất là khi khoa học công nghệ đã có bước tiến nhanh về nguyên lý, về thiết bị chuyển đổi như turbin gió, pin mặt trời hiệu năng cao. Tuy nhiên việc chuyển đổi cần đầu tư nhiều nguồn lực (cả đất đai, kinh phí, nhân lực công nghệ, thiết bị,…) và phải có quyết tâm cao mới thực hiện được.
Trong Điều 5của Luật Điện lực 2025 vềChính sách của Nhà nước về phát triển điện lực có mục 9. Về chính sách phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới:
a) Phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống điện với giá thành điện năng hợp lý, đồng bộ với phát triển lưới điện và quy hoạch phát triển điện lực, phù hợp với trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, đáp ứng mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam trong từng thời kỳ;
b) Có cơ chế ưu đãi, hỗ trợ cho từng loại hình nguồn điện, trong đó có các dự án thủy điện nhỏ được xác định theo quy định của pháp luật, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ; có chính sách ưu đãi, hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi; khuyến khích đầu tư các dự án tham gia thị trường điện cạnh tranh”.
Quy định này đã định hướng cho việc ưu tiên các nguồn lưc cho phát triển điện từ NLM, NLTT trong quá trình lập quy hoạch phát triển nguồn điện.
Trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, tỷ trọng năng lượng tái tạo đã được điều chỉnh tăng khá nhiều so với Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt. Trong đó, đến năm 2030 điện mặt trời tập trung sẽ phải lắp đặt đạt công suất 34.014 MW tăng 25.278 MW so với công suất nêu trong Quy hoạch điện VIII. Điện gió trên bờ, gần bờ trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng tăng lên đáng kể đạt 28.058 MW, tăng 6.178 MW so với công suất nêu trong Quy hoạch điện VIII. Tuy nhiên, riêng điện gió ngoài khơi không được Quy hoạch điện VIII đưa vào lắp đặt trong giai đoạn đến năm 2030 còn trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh có đưa công suất lắp đặt là 6.000 MW (xem bảng 1). Nhìn chung, trừ điện gió ngoài khơi, các nguồn điện khác trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đều tăng so với Quy hoạch điện VIII, chứng tỏ nhu cầu điện được phân tích sẽ tăng nhanh trong giai đoạn đến năm 2030.
Phân tích mức lắp đặt các nguồn điện vào năm 2050 của QHĐ8ĐC trên bảng 2 cho thấy, các nguồn điện đều phải lắp đặt với công suất tăng so với công suất nêu trong QHDD8. Đặc biệt, điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN) phải đạt 137.670 MW, tăng thêm 98.620 MW so với QHDD8 và điện gió ngoài khơi phải lắp đặt đạt 138.639 MW tăng so với công suất nêu trong QHDD8 là 47.139 MW.
Hai nguồn điện khác có mức tăng cao năm 2050 theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh so với Quy hoạch điện VIII đó là thủy điện tích năng và pin lưu trữ với mức tăng tới 67.219 MW (để đạt 112.769 MW) và điện gió trên bờ, gần bờ với mức tăng tới 19.595 MW (để đạt 96.645 MW).
Như vậy, có thể thấy các loại nguồn điện từ năng lượng tái tạo có mức lắp đặt tăng rất cao và đến năm 2050 đạt mức công suất rất lớn. Việc đưa quy hoạch vào thực hiện để đạt các mức công suất lắp đặt này còn nhiều việc phải làm, phải huy động được nhiều nguồn lực, phải có quyết tâm cao của toàn bộ hệ thống chính trị, phải được sự vào cuộc của cộng đồng doanh nghiệp, sự đồng thuận và ủng hộ cao của nhân dân nữa.
Với mức lắp đặt các nguồn điện từ NLTT cao như vậy nên công suất điện than năm 2050 sẽ bằng 0, nghĩa là không còn hoạt động của loại nguồn này ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong các nguồn nhiệt điện khác vẫn còn các nguồn có thể phát thải KNK như NĐ than đốt kèm sinh khối/amoniac, NĐ than kèm CCS, NĐ đốt sinh khối/amoniac hoàn toàn, TBKHH sử dụng LNG mới,… Tuy nhiên mức phát thải KNK từ sản xuất điện của các nguồn phát điện toàn quốc sẽ ở mức rất thấp, chỉ còn là 27 triệu tấn CO2 một năm (từ năm 2050) đạt mức quy định trong Quyết định phê duyệt QHĐ8 số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023. Đây sẽ là nhân tố mang tính quyết định đến việc thực hiện cam kết NetZero vào năm 2050 của Việt Nam.
Tra cứu Nghị định 58 chúng tôi thấy, Nghị định này quy định nhiều về hai loại hình phát điện là điện mái nhà và điện gió ngoài khơi, hai loại hình chưa hoặc ít được đề cập trong các văn bản trước đó. Về mua điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN) dư chúng tôi đã có một bài viết đăng trên Tạp chí điện tử Kinh tế Môi trương ngày 13/05/2024 bình luận về chủ trương của một số nhà quản lý và nhà khoa học không đồng ý để EVN mua điện dư này hoặc mua với giá 0 đồng. Về vấn đề này, khoản 1 Điều 10. Nguyên tắc phát triển của Nghị định 58 ghi rõ như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân sở hữu nguồn điện tự sản xuất, tự tiêu thụ nếu không sử dụng hết được bán sản lượng điện dư như sau:
a) Nguồn điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ được bán sản lượng điện dư theo quy định tại Nghị định này;
b) Trừ đối tượng quy định tại điểm a khoản này, nguồn điện tự sản xuất, tự tiêu thụ khác được bán sản lượng điện dư nhưng không quá 10% sản lượng điện thực phát”.
Cụ thể hơn, điểm a mục 4 Điều 12 của Nghị định này quy định:
“a) Hàng tháng, Bên mua điện dư chỉ thanh toán cho phần sản lượng điện dư bán vào hệ thống điện quốc gia không quá 10% sản lượng điện thực phát được xác định tại đầu cực của máy phát điện hoặc bộ chuyển đổi. Tỷ lệ sản lượng điện dư cụ thể do các bên mua bán thỏa thuận theo quy định”;
Như vậy, việc lắp đặt điện mặt trời áp mái tại các hộ gia đình, các công sở, các khu công nghiệp,… phải cân đối để ưu tiên sử dụng cho mục đích của chính mình và có dư thì cũng chỉ bán không quá 10% sản lượng điện thực phát. Trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, công suất lắp đặt ĐMTMN rất lớn, 12.615 MW đến năm 2030 và 137.670 MW đến năm 2050 nên phải luôn theo dõi nguồn điện này để có thể sử dụng hiệu quả, cả tự tiêu dùng, cả bán điện dư để không bị phí phạm. Và, nếu cần vẫn phải điều chỉnh Nghị định 58 cho phù hợp với thực tiễn.
Trong Nghị định 58, việc lắp đặt, chuyển tải và sử dụng điện gió ngoài khơi (ĐGNK) được quy định khá rõ. Trước hết, vấn đề khảo sát tiềm năng ĐGNK đã được quy định rõ trong Điều 26. Lựa chọn đơn vị khảo sát dự án điện gió ngoài khơi, cụ thể hóa quy định tại điểm b khoản 2 Điều 27 Luật Điện lực:
2. Việc lựa chọn đơn vị khảo sát dự án điện gió ngoài khơi trước khi lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án được quy định như sau:
a) Thủ tướng Chính phủ giao doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thực hiện;
b) Căn cứ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ quy định việc lựa chọn đơn vị thực hiện khảo sát dự án điện gió ngoài khơi, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này.”
Theo chúng tôi, phải sớm xây dựng doanh nghiệp đủ năng lực khảo sát ĐGNK để có số liệu phục vụ kêu gọi đầu tư, triển khai các dự án ĐGNK đạt hiệu quả. Các nước tiên tiến đã có những tàu chuyên khảo sát lớn, không chỉ khảo sát các yếu tố gió mà còn khảo sát các yếu tố khí tượng, hải văn, địa chất đáy biển,… phục vụ khai thác tài nguyên biển hiệu quả. Chắc chắn giá một chiếc tàu (kiểu như tàu Hải Dương của Trung Quốc) không rẻ nên có thể thiết kế đóng tàu khảo sát ở Việt Nam hoặc kết hợp với Binh chủng Hải quân để lắp đặt thiết bị trên tàu hiện có để tiến hành khảo sát.
Quả thật, đơn vị được giao khảo sát rất khó đáp ứng các điều kiện và năng lực tại khoản1 Điều 26 của Nghị định 58 như sau:
1.a) Có đề án triển khai hoạt động khảo sát phục vụ phát triển dự án điện gió ngoài khơi rõ ràng, phù hợp, khả thi. Quy mô công suất và khu vực biển đề xuất khảo sát phải thuộc quy hoạch phát triển điện lực hoặc kế hoạch thực hiện quy hoạch phát triển điện lực được phê duyệt;
1. b) Cam kết sử dụng nhân lực, hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp trong nước để thực hiện đề án quy định tại điểm a khoản này trên nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh về giá cả, chất lượng, tiến độ và khả năng sẵn có;
1.c) Cam kết không yêu cầu hoàn trả kinh phí trong mọi trường hợp;
1.d) Có năng lực tài chính hoặc hợp tác với tổ chức có năng lực thực hiện điều tra, khảo sát theo đề án quy định tại điểm a khoản này;
1.đ) Có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao. Trường hợp không có ý kiến thống nhất, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này tổ chức hợp với bộ không có ý kiến thống nhất và cơ quan, tổ chức liên quan để quyết định việc lựa chọn đơn vị khảo sát và giao khu vực biển để thực hiện khảo sát;
1.e) Cam kết tuân thủ các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 26 Luật Điện lực, quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.”
Vì vậy, nếu không tiến hành xây dựng doanh nghiệp và tổ chức khảo sát ngay từ bây giờ thì có thể làm chậm quá trình kêu gọi đầu tư và thực hiện ĐGNK, thậm chí không thực hiện được mức công suất lắp đặt rất lớn đến năm 2050 là 138.639 MW.
Trong Luật Điện lực 2024 và Nghị định 58 đã nêu những ưu đãi đối với các dự án ĐGNK nhưng có lẽ chưa thật sự hấp dẫn người đầu tư vì những dự án đầu tư cần nguồn vốn lớn và có nhiều rủi ro. Vì vậy trước 2030 phải xác định được khung giá mua ĐGNK để doanh nghiệp xem xét đầu tư đảm bảo có lãi. Nếu được, Nhà nước nên đầu tư một dự án thử nghiệm để xem xét khả năng xây dựng một trang trại ĐGNK, tính toán giá thành và định giá ưu tiên mua điện từ các dự án loại này.
GS.TS Hoàng Xuân Cơ
Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/ban-them-ve-phat-trien-dien-nang-luong-moi-dien-tai-tao-trong-nghi-dinh-58-bai-1-97193.html