Theo báo cáo, Việt Nam có khoảng 900 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt hơn 44% và sẽ vượt 50% vào năm 2030. Tuy nhiên, quá trình bê tông hóa, san lấp ao hồ và thu hẹp kênh rạch khiến không gian thoát nước tự nhiên bị thu hẹp nhanh chóng.
Tính đến năm 2024, cả nước ghi nhận khoảng 397 điểm ngập với tổng diện tích hơn 900ha. Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, Hải Phòng… đều có những khu vực trung tâm thường xuyên ngập sâu 0,3-0,8 m, thời gian tiêu thoát kéo dài nhiều giờ. Ngập úng không chỉ gây đình trệ giao thông, ảnh hưởng sinh hoạt mà còn gây thiệt hại kinh tế tương đương 1-1,5% GDP đô thị mỗi năm.
Ngập úng không chỉ gây đình trệ giao thông, ảnh hưởng sinh hoạt mà còn gây thiệt hại kinh tế tương đương 1-1,5% GDP đô thị mỗi năm.
Hệ thống thoát nước tại phần lớn đô thị hiện nay vẫn là hệ thống chung - vừa thoát nước mưa, vừa thoát nước thải - được xây trước thập niên 1990. Sau nhiều năm sử dụng, hệ thống này xuống cấp, bồi lắng và hoàn toàn không phù hợp với lượng mưa tăng đột biến hiện nay. Trong khi đó, dù cả nước có 83 nhà máy xử lý nước thải với công suất thiết kế hơn 2 triệu m3/ngày đêm, nhưng chỉ 50-60% công suất thực tế được vận hành do thiếu mạng lưới thu gom. Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt tiêu chuẩn mới chỉ khoảng 18%.
Đầu tư cho thoát nước cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Trong gần ba thập kỷ (1995 -2021), tổng vốn đầu tư mới đạt hơn 3 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với nhu cầu 250.000 - 300.000 tỷ đồng dự kiến đến năm 2030. Ngân sách chỉ có thể đáp ứng 20-25%, còn mô hình PPP vẫn hầu như chưa được khai thác.
Bức tranh càng trở nên thách thức hơn khi các kịch bản biến đổi khí hậu đều chỉ ra xu hướng cực đoan rõ rệt: Lượng mưa lớn tăng 20-30%, số ngày mưa trên 100 mm gấp đôi so với giai đoạn 1990 - 2000; nước biển dâng 3-4 mm/năm, trong khi nhiều vùng đồng bằng lún 1,5-2,5 cm/năm. Tại TPHCM, Cần Thơ, Cà Mau… mưa lớn kết hợp triều cường và sụt lún khiến ngập úng có xu hướng ngày càng nặng nề.
Trong bối cảnh đó, Bộ Xây dựng cho rằng nếu tiếp tục xử lý từng điểm ngập riêng lẻ, các đô thị sẽ liên tục “đuổi theo nước”. Cần một khung pháp lý và chiến lược tổng thể. Bộ đã kiến nghị Chính phủ cho phép hoàn thiện Luật Cấp, Thoát nước để trình Quốc hội vào tháng 5/2026; đồng thời sửa đổi Nghị định 80/2014 của Chính phủ nhằm bổ sung quy định về bảo vệ hành lang thoát nước tự nhiên.
Bộ Xây dựng đã kiến nghị Chính phủ cho phép hoàn thiện Luật Cấp, Thoát nước để trình Quốc hội vào tháng 5/2026.
Bộ Xây dựng cũng đề xuất ban hành Nghị quyết về tăng cường quản lý và đầu tư thoát nước chống ngập giai đoạn 2026-2035; xây dựng Đề án thoát nước thích ứng biến đổi khí hậu giai đoạn 2026-2035, tầm nhìn 2050. Đề án sẽ tập trung cải thiện quy hoạch thoát nước gắn với quy hoạch đô thị, giao thông, thủy lợi; ưu tiên xây dựng hồ điều hòa, trạm bơm, cống kiểm soát triều và các tuyến cống liên vùng; đồng thời ứng dụng mạnh công nghệ số để xây dựng bản đồ ngập và trung tâm điều hành thoát nước thông minh.
Theo Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng, ngập úng đô thị không còn là sự cố cục bộ mà là hệ quả tổng hợp của nhiều yếu tố: Quy hoạch chưa theo kịp đô thị hóa, hạ tầng xuống cấp, và khí hậu ngày càng cực đoan. Vì vậy, giải pháp duy nhất là chuyển sang quản lý tổng hợp theo lưu vực, dựa trên dữ liệu và dự báo, thay vì chỉ xử lý từng điểm ngập rời rạc.
Mục tiêu mà Bộ Xây dựng đặt ra đến năm 2035 là kiểm soát cơ bản ngập tại các đô thị lớn; nâng tỷ lệ thu gom và xử lý nước thải lên 30-40%; hoàn thành bản đồ ngập úng và hệ thống cảnh báo - điều hành thông minh; hướng tới những đô thị có khả năng chống chịu tốt hơn trước thiên tai trong tương lai.
Lộc Liên