Năm 2025 nhiều khả năng sẽ được ghi lại như một bước ngoặt của thiên tai ở Việt Nam: sau quãng thời gian dài vắng bóng bão mạnh, liên tiếp những hoàn lưu phức tạp, mưa đặc biệt lớn và lũ vượt mốc lịch sử đã xuất hiện đồng thời trên 13 lưu vực từ Bắc đến Trung bộ, gây tổn thất nặng nề về người và tài sản. Nhưng sức tàn phá ấy không chỉ đến từ thiên nhiên. Mức độ thiệt hại trong mỗi trận lũ phụ thuộc rất lớn vào cách con người tổ chức không gian sống, chất lượng dự báo – cảnh báo, mức độ chuẩn bị của hệ thống và đặc biệt là cách chúng ta quy hoạch, xây dựng và vận hành các hồ chứa thủy điện – thủy lợi.
TS. Tô Văn Trường. Ảnh: TL
Tranh luận xoay quanh câu chuyện thủy điện “xả lũ chồng lũ” đã kéo dài hơn một thập kỷ và thường xuyên trở thành điểm nóng mỗi khi thiên tai xảy đến. Tuy nhiên, đặt câu hỏi theo hướng “thủy điện có hại hay không” là một cách tiếp cận giản lược. Vấn đề cốt lõi phải được nhìn nhận ở tầm quản trị: chúng ta đã thiết kế quy hoạch ra sao, điều phối dòng chảy như thế nào và chuẩn bị đến mức nào để đạt được cái lợi lớn nhất, giảm cái mất xuống mức thấp nhất và chủ động hạn chế các tác động bất lợi.
Biến đổi khí hậu đang khiến các hiện tượng thời tiết cực đoan diễn ra dồn dập hơn, khốc liệt hơn và khó lường hơn. Việt Nam không nằm ngoài xu thế ấy. Vì vậy, điều cần điều chỉnh không phải là loại bỏ thủy điện – điều vừa phi thực tế vừa trái với yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng mà là nâng cấp tầm nhìn phát triển, hiện đại hóa phương thức quản trị và tăng cường phối hợp liên ngành.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, thiệt hại lớn không phát sinh từ một nguyên nhân đơn lẻ. Đó là hệ quả tích tụ của nhiều mắt xích: khâu quy hoạch chưa đồng bộ; chất lượng công trình còn chênh lệch; năng lực quản lý vận hành hồ chứa chưa đáp ứng yêu cầu; hệ thống dự báo – cảnh báo còn độ trễ; việc chuẩn bị kịch bản và tổ chức ứng phó chưa kịp thời. Khi bất kỳ mắt xích nào suy yếu, toàn chuỗi bị kéo căng; và trong bối cảnh mưa lũ vượt chuẩn nhiều lần, rủi ro vì thế bị khuếch đại.
Cũng cần thẳng thắn nhìn nhận một thực trạng âm ỉ suốt nhiều năm: nhiều cơ quan chuyên môn đang thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, trong khi yêu cầu kỹ thuật ngày càng phức tạp, cường độ công việc gia tăng, chế độ đãi ngộ và điều kiện làm việc còn hạn chế. Áp lực ấy dễ dẫn đến sai sót, chậm trễ hoặc lúng túng trong những thời điểm cần ra quyết định nhanh và chính xác.
Điều quan trọng nhất lúc này không phải là truy tìm trách nhiệm theo hướng quy chụp, mà là thái độ cầu thị nhìn lại toàn bộ hệ thống. Mỗi đơn vị, mỗi cá nhân tham gia vào chuỗi quản trị thiên tai cần nhận diện rõ hạn chế của mình; tăng cường phối hợp, chia sẻ dữ liệu minh bạch; nâng cao chất lượng dự báo/cảnh báo; hoàn thiện kịch bản ứng phó; và vận hành phương châm “bốn tại chỗ” một cách thực chất hơn. Chỉ bằng tinh thần cải thiện từng bước, dựa trên cơ sở khoa học và sự hợp lực của toàn hệ thống, chúng ta mới có thể giảm thiểu thiệt hại và chủ động trước các hình thái thiên tai ngày càng cực đoan, bất thường.
Chiều 19.11.2025, Ban chỉ huy Phòng thủ dân sự tỉnh Đắk Lắk cho biết đến 15 giờ 20 phút cùng ngày, Nha máy thủy điện Sông Ba Hạ đã nâng mức xả nước về hạ du lên đến 15.490m3/ giây. Đây là mức xả nước cao nhất từ khi nhà máy thủy điện này đi vào hoạt động từ năm 2009. Trận lũ lịch sử vào năm 2009 ở tỉnh Phú Yên (cũ), nhà máy thủy điện này cũng chỉ xả lũ đến lưu lượng 14.500m3/giây. Nguồn: Báo Người Lao Động
Thiếu chuyển biến trong phòng chống thiên tai – khoảng trống lớn nhất nằm ở “khâu chuẩn bị”
Từ đầu 2025, nhiều thông điệp về tăng cường khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được nhấn mạnh. Nhưng thực tế, công tác phòng chống thiên tai vẫn lặp lại mô hình cũ: bị động, thiếu công cụ, thiếu năng lực phân tích, thiếu dự báo mưa/lũ chi tiết cho từng lưu vực.
Trong khi Thái Lan đã dùng công nghệ không gian và địa tin học (GIS, ảnh vệ tinh độ phân giải cao, radar mưa, phân tích địa hình 3D) để mô phỏng diễn biến ngập lụt theo từng quận, từng lưu vực; thì ở Việt Nam, nhiều nơi vẫn vận hành theo kiểu “chấm cơm”, chỉ phản ứng khi nước đã dâng và ngập đã xảy ra.
Những hình ảnh quen thuộc như lãnh đạo xuống thăm vùng lũ sau khi nước rút, kêu gọi hỗ trợ sau thiên tai đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và sự mẫn cán. Tuy vậy, điều đó cũng phần nào chỉ ra một thực tế là chúng ta mạnh về cứu trợ, nhưng chưa đủ mạnh trong phòng chống, ứng phó (thiên tai).
Trong khi đó, đặc trưng của lũ miền Trung là lên nhanh, xuống nhanh. Nếu thiếu cảnh báo sớm, thiết bị ứng cứu tiêu chuẩn, bản đồ ngập lụt cập nhật, hay quy trình sơ tán rõ ràng, thì thiệt hại chắc chắn lớn hơn cần thiết.
Nhiều khu vực ở Đắk Lắk (tỉnh Phú Yên trước đây) chìm trong biển nước. Ảnh: M.N/Báo Phụ nữ TP.HCM
Vai trò của thủy điện: Lá chắn quan trọng khi vận hành đúng – nguy cơ lớn nếu quản trị yếu
Không thể phủ nhận rằng nhiều năm qua, các hồ chứa lớn đặc biệt tại sông Hồng và sông Mê Kông đã giảm đáng kể rủi ro lũ cho hạ du. Khi dự báo mưa chính xác và vận hành theo đúng quy trình, hồ thủy điện giữ vai trò cắt lũ hiệu quả, đồng thời bảo đảm nước cho sản xuất sau mùa mưa.
Trên thế giới, vai trò này được xem là trụ cột. Chẳng hạn Nhật Bản thiết kế nhiều hồ chứa đa mục tiêu, tối ưu hóa bằng hệ thống mô phỏng thủy văn theo thời gian thực. Na Uy, quốc gia thủy điện số 1 châu Âu, coi các hồ chứa là phần của hệ thống quản trị khí hậu quốc gia. Hàn Quốc đầu tư mạnh vào mô hình dự báo mưa cực đoan để vận hành hồ chứa theo hướng “điều tiết sớm”.
Nhưng tại Việt Nam, đặc biệt ở miền Trung, mặt trái của thủy điện ngày càng rõ rệt.
Mỗi trận lũ có thể mang theo hàng tỷ m³ nước đổ dồn trong vài chục giờ. Trong khi đó, dung tích hữu ích của phần lớn hồ thủy điện miền Trung chỉ chiếm 10–25% tổng lượng lũ. Có nghĩa là: Dù hồ có tuân thủ quy trình xả lũ thì hạ du vẫn ngập. Quy trình vận hành liên hồ hiện nay quá “cứng”, không phù hợp khi mưa lớn kéo dài hoặc lũ chồng lũ.
Trong khi đó nhiều hồ lại không được thiết kế nhiệm vụ phòng lũ ngay từ đầu, dẫn đến lúng túng, bị động khi phải “kiêm nhiệm”.
Bài học tại lưu vực sông Ba là rõ ràng: nếu hồ Sông Ba Hạ được quy hoạch đa mục tiêu với dung tích phòng lũ đủ lớn, thành phố Tuy Hòa (trước đây) đã có lá chắn tốt hơn nhiều; không phải năm nào cũng lo lũ từ thượng nguồn và khô hạn vào mùa kiệt.
Bên cạnh đó, hệ lụy môi trường của “loạn thủy điện nhỏ” làm mất rừng, giảm trầm tích, thay đổi dòng chảy – tích tụ qua nhiều năm khiến sức chống chịu tự nhiên ngày càng suy yếu.
Hiện trường vụ phá rừng ở xã Đắk Phơi. Ảnh tư liệu. Ảnh: T.X/Báo Lao động
Nhân tai trong thiên tai
Điều đáng lo hơn thiên tai là nhân tai – những tổn thương do chính con người gây ra cho môi trường sống của mình. Suốt nhiều thập niên, rừng tự nhiên, có vai trò như lá chắn phòng vệ kiên cường trước lũ lụt và sạt lở, đã bị thu hẹp bởi các mục tiêu kinh tế ngắn hạn. Nhiều cánh rừng bị chuyển đổi công năng hoặc khai thác vượt ngưỡng chịu đựng, khiến đất trống đồi trọc lan rộng, dòng chảy thay đổi và khả năng giữ nước của hệ sinh thái suy giảm nghiêm trọng. Khi những cơn mưa cực đoan ập đến, thiên nhiên không còn “vùng đệm” để hấp thụ và giảm tốc dòng lũ, nên thiệt hại càng trở nên nặng nề.
Những câu hát quen thuộc “Rừng ơi! Ta đã về đây!” từng là lời hứa của người thợ rừng, của những thế hệ sống hòa cùng núi đồi. Hôm nay, nhắc lại câu hát ấy cũng là lời tự vấn: chúng ta đã thực sự “về với rừng” chưa hay vẫn đang vô tình đẩy rừng lùi xa, rồi lại oằn mình gánh chịu hậu quả?
Khôi phục rừng tự nhiên, chấm dứt tình trạng phá rừng trá hình, và tái thiết các hệ sinh thái phòng hộ là yêu cầu mang tính sống còn. Bởi nếu không đối diện và chấn chỉnh “nhân tai”, chúng ta sẽ mãi chạy theo để xử lý hậu quả của thiên tai – ngày một khốc liệt và khó lường hơn.
Nói về thủy điện, không ít trường hợp xả lũ thiếu thông báo hoặc thông báo quá muộn, vi phạm quy trình vận hành, gây thiệt hại nặng cho vùng hạ du. Những sai phạm này cần được xử lý nghiêm, kể cả khởi kiện và bồi thường như nhiều quốc gia đã làm.
Nhìn rộng hơn, các đô thị từ Quy Nhơn đến Nha Trang, Thái Nguyên đều chứng kiến trận ngập nặng dù dự báo mưa lớn đã có trước từ 5–10 ngày. Nguyên nhân không chỉ nằm ở xả lũ, mà ở: Quy hoạch đô thị cản trở đường thoát nước; Thiếu bản đồ ngập lụt linh hoạt cho từng cấp độ mưa; Thiếu thiết bị cứu hộ tiêu chuẩn: ca nô, áo phao, thực phẩm khẩn cấp; Thiếu năng lực dự báo lượng mưa và cường độ mưa – yếu tố quyết định lũ cực đoan.
Thế giới đã vượt qua giai đoạn này từ lâu. Hà Lan mô phỏng ngập lụt từng 10 phút một trong thời gian thực. Nhật Bản có bản đồ ngập lụt chi tiết theo từng tuyến đường, cập nhật bằng dữ liệu radar. Úc ứng dụng AI dự báo rủi ro tại từng ô lưới 100 m, gửi cảnh báo tự động cho người dân.
Khoảng cách này là lời cảnh tỉnh cho Việt Nam.
Giải pháp: Không phải “trách thủy điện”, mà là xây dựng hệ thống phòng chống thiên tai hiện đại
Để phát huy vai trò của thủy điện và giảm thiểu rủi ro, cần một loạt giải pháp đồng bộ cần thực hiện. Đầu tiên là vận hành hồ chứa thông minh: Ứng dụng dữ liệu thời gian thực, radar mưa, mô hình thủy văn thay cho quy trình “cứng” theo lịch. Nhật Bản, Hàn Quốc đã áp dụng rộng rãi “vận hành dựa trên dự báo”.
Thứ hai là quy hoạch lại toàn bộ hệ thống thủy điện/thủy lợi. Loại bỏ dứt khoát thủy điện nhỏ hiệu quả thấp, xem xét nâng dung tích phòng lũ cho các hồ chiến lược.
Thứ ba là tăng cường dự báo mưa lớn và lũ quét. Đầu tư mạnh cho radar thời tiết, hệ thống đo mưa tự động, mô hình dự báo lượng mưa chi tiết theo lưu vực.
Thứ tư là chuẩn hóa thiết bị cứu hộ. Từ ca nô, áo phao đến thực phẩm khẩn cấp như mô hình của Nhật Bản và Philippines để bảo đảm “4 tại chỗ” thực chất, chứ không phải trên giấy.
Thứ năm là minh bạch thông tin xả lũ. Truyền dữ liệu xả lũ qua SMS, app, loa truyền thanh, mạng xã hội theo thời gian thực. Nhiều nước đã làm được, Việt Nam hoàn toàn có thể.
Ngoài ra, cần xây dựng bản đồ ngập lụt động. Cho phép mô phỏng các cấp độ mưa – lũ khác nhau, hỗ trợ quy hoạch đô thị và sơ tán dân.
* * *
Thủy điện chỉ là một phần của bài toán quản lý tài nguyên nước, điều quyết định nằm ở năng lực quản trị.
Thủy điện không phải “thủ phạm” cũng không phải “cứu tinh”. Nó chỉ là một cấu phần của hệ thống quản trị rủi ro thiên tai.
Vấn đề lớn nhất của Việt Nam không nằm ở thiên nhiên, cũng không nằm ở bản thân công trình, mà nằm ở cách chúng ta chuẩn bị, cách chúng ta dự báo, cách chúng ta quy hoạch và cách chúng ta vận hành.
Trong thời kỳ khí hậu cực đoan, Việt Nam cần một tư duy mới: đầu tư cho phòng ngừa – quản trị khoa học – minh bạch thông tin, thay vì tiếp tục chạy theo ứng phó hoặc đổ lỗi cho nhau. Khi quy hoạch đúng, quản trị tốt và vận hành thông minh, thủy điện sẽ là “lá chắn”.
Còn nếu quản lý yếu kém, thiếu dự báo, thiếu trách nhiệm, nó sẽ trở thành một phần của rủi ro.
Lựa chọn nằm trong tay chúng ta.
Tô Văn Trường