“Lá chắn mềm” của Tổ quốc
Được xem là "phên giậu" của Tổ quốc, vùng biên giới có bức tranh văn hóa đa sắc, được kiến tạo từ quá trình giao lưu, tiếp biến lâu đời giữa các cộng đồng dân tộc. Cho đến nay, nhiều tộc người tại khu vực này vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, từ kiến trúc nhà ở, trang phục, ngôn ngữ cho đến lễ hội và tri thức dân gian.
Những giá trị này không chỉ góp phần gắn kết cộng đồng, mà còn trở thành "lá chắn mềm" giúp giữ vững an ninh chính trị, quốc phòng và tạo sinh kế thông qua du lịch cộng đồng. Ví dụ điển hình là mô hình du lịch homestay của người Lô Lô ở Hà Giang, hay việc bảo tồn văn hóa cồng chiêng ở Tây Nguyên đã và đang mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho người dân.
Những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc vẫn được đồng bào các dân tộc giữ gìn. Ảnh: phunuvietnam.vn
Tuy nhiên, tại hội thảo khoa học chủ đề “Văn hóa các cộng đồng cư dân vùng biên giới đất liền Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, chính trị hiện nay” do Viện Dân tộc học và Tôn giáo học tổ chức mới đây, TS. Trần Hồng Thu chỉ ra rằng, văn hóa vùng biên giới đang chịu "sự mai một nhanh chóng". Trang phục truyền thống ngày càng ít xuất hiện trong đời sống thường ngày; ngôn ngữ dân tộc bị thu hẹp vào phạm vi gia đình; ảnh hưởng từ văn hóa xuyên biên giới đã tác động mạnh đến bản sắc cộng đồng...
Một phần đáng kể các giá trị văn hóa bị "thương mại hóa" và du nhập các yếu tố ngoại lai, dẫn đến biến dạng, mất tính nguyên bản. Thậm chí, quá trình "Kinh hóa" và "Trung Quốc hóa" đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt ở vùng biên giới phía Bắc, khiến một bộ phận giới trẻ thờ ơ với di sản của dân tộc mình, thậm chí coi văn hóa truyền thống là "lỗi thời".
Sự phát triển của du lịch, dù mang lại lợi ích kinh tế, nhưng cũng tác động tới bản sắc dân tộc. Chẳng hạn, một số nghi lễ được cắt gọt để trở thành tiết mục biểu diễn đơn thuần, nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách, phần nào làm mất đi giá trị thiêng liêng và ý nghĩa cốt lõi của di sản. Bên cạnh đó, những phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn, thách cưới, hay đốt rừng làm nương, vẫn tồn tại dai dẳng, cản trở tiến trình phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào.
Thực tế đó đòi hỏi có các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng biên giới. Theo PGS.TS. Nguyễn Văn Minh, Viện trưởng Viện Dân tộc học và Tôn giáo học, bảo tồn giá trị văn hóa vùng biên giới không chỉ gắn với giữ gìn bản sắc cộng đồng mà còn trực tiếp liên quan đến ổn định chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Phát triển gắn với bảo tồn
Bảo tồn giá trị văn hóa vùng biên giới đang trở thành vấn đề cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần triển khai đồng bộ các giải pháp, từ chính sách vĩ mô đến hành động cụ thể tại cơ sở.
Trong đó, tăng cường thực thi chính sách và đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa. Tiếp tục triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 và các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa và số hóa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là bước đi quan trọng, tạo cơ sở dữ liệu để bảo tồn và khai thác bền vững.
Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững gắn với văn hóa bản địa. Ảnh: hanoimoi.vn
Bên cạnh đó, có cách tiếp cận mới, gắn bảo tồn văn hóa với lợi ích và sinh kế của người dân. Từ khảo sát thực tiễn, ThS. Trần Thị Phương Anh, Viện Dân tộc học và Tôn giáo học, đề xuất có chính sách hỗ trợ mô hình kinh tế cộng đồng và chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trẻ ngay tại địa phương. Điều này sẽ giúp gìn giữ giá trị truyền thống, đồng thời tạo động lực phát triển bền vững cho vùng biên giới trong giai đoạn mới.
Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững gắn với văn hóa bản địa được xem là một trong những động lực quan trọng nhất để chuyển đổi sinh kế và nâng cao thu nhập cho người dân vùng biên giới. Tuy nhiên, tránh tình trạng "thương mại hóa" di sản một cách tùy tiện. Thay vào đó, cần xây dựng các sản phẩm du lịch độc đáo, kết hợp trải nghiệm văn hóa chân thực, tôn trọng bản sắc. Ví dụ như du lịch di sản, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, nơi du khách có thể tham gia vào các lễ hội truyền thống, học nghề thủ công và thưởng thức ẩm thực đặc sản...
Chú trọng giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp các em hiểu và trân trọng giá trị di sản của mình. Đồng thời, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo như những "cầu nối" trong gìn giữ, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp.
Ứng dụng công nghệ số vào công tác bảo tồn và quảng bá văn hóa cũng là một hướng đi chiến lược. Cụ thể, cần xây dựng cơ sở dữ liệu số về di sản văn hóa, sử dụng các nền tảng trực tuyến và mạng xã hội để phổ biến thông tin để lan tỏa giá trị văn hóa một cách bền vững, giúp các cộng đồng dân tộc thiểu số vùng biên giới kết nối, giao lưu và tự hào hơn về bản sắc của mình.
Khi văn hóa được bảo vệ, gìn giữ và khai thác một cách hợp lý sẽ trở thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ, thúc đẩy sự thịnh vượng của cộng đồng địa phương, đồng thời củng cố vững chắc chủ quyền quốc gia nơi tuyến đầu Tổ quốc.
Thảo Nguyên