Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững - Kỳ 1: Giải quyết các vấn đề về môi trường cấp bách

Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững - Kỳ 1: Giải quyết các vấn đề về môi trường cấp bách
3 giờ trướcBài gốc
Hơn hai thập niên trở lại đây, TP. Huế đã chủ động xây dựng, hoàn thiện thể chế, ban hành nhiều nghị quyết quan trọng nhằm quản lý, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xử lý chất thải, nước thải từ đô thị đến nông thôn, tại các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT), làng nghề. Đi cùng với hoạt động trên, thành phố đã chi trả nguồn vốn ngân sách địa phương không nhỏ.
Theo Sở Nông nghiệp & Môi trường (NN&MT), trung bình mỗi năm ngân sách địa phương chi hàng trăm tỷ đồng cho các hoạt động xử lý ô nhiễm, quan trắc, thu gom rác thải và trồng, cải tạo cây xanh đô thị. Cùng nguồn vốn ngân sách, TP. Huế còn chủ động vận động các dự án ODA, các tổ chức quốc tế và kêu gọi xã hội hóa đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường (BVMT) thông qua việc thúc đẩy các chương trình, DA hợp tác phát triển kinh tế - xã hội.
Các khu vực, cơ sở trước đây là “điểm nóng” về ô nhiễm môi trường, như CCN Thủy Phương (nay là phường Thanh Thủy); làng bún Vân Cù (phường Kim Trà), làng nghề vôi hàu ở đầm Lập An (xã Chân Mây-Lăng Cô)… nay đã được khắc phục. Các DA cấp thiết về BVMT, phòng chống thiên tai, ứng phó với BĐKH vùng ven biển tại phường, xã: Thuận An, Vinh Lộc, Phong Quảng… được ưu tiên triển khai. Các công trình, hạng mục hạ tầng kỹ thuật đô thị, BVMT được đầu tư, đưa vào sử dụng đã góp phần trong việc đồng bộ cơ sở hạ tầng chung, cải thiện chất lượng môi trường ở các phường trung tâm và ven đô. Công tác phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường được chú trọng, triển khai đa dạng trong các lĩnh vực công nghiệp, năng lượng, dịch vụ, thương mại, giao thông vận tải đạt nhiều kết quả quan trọng.
Tiêu biểu nhất là DA Cải thiện môi trường nước TP. Huế (cũ) với tổng vốn hơn 5.000 tỷ đồng, do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ; trong đó có vốn đối ứng gần 600 tỷ đồng. DA đã đầu tư nhà máy xử lý nước thải với công suất 30.000 m3/ngày đêm và hệ thống thoát nước cống chung với hơn 213km đường ống (gồm ống bê tông cốt thép, nhựa HDPE, GRP) và hơn 6.460 hố ga, 166 giếng tách nước. DA đã hoàn thiện, đưa vào sử dụng, góp phần thu gom nước thải sinh hoạt trên địa bàn 11 phường phía nam TP. Huế (cũ); đồng thời, nâng cao khả năng tiêu thoát nước mưa ở các phường nội đô và cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường các dòng sông, kênh, hồ trong khu vực.
Ông Nguyễn Đình Đức, Giám đốc Sở NN&MT cho biết: “DA Cải thiện môi trường nước TP. Huế (trước đây) là một công trình trọng điểm, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo tồn cảnh quan sông Hương và tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội ở các phường trung tâm. Hiện nay, DA còn có nguồn vốn kết dư lên tới 1.400 tỷ đồng để đầu tư vào các hạng mục hạ tầng môi trường khác”.
Cùng với xử lý nước thải, TP. Huế mời gọi nhà đầu tư, xây dựng nhà máy điện rác Phú Sơn (phường Phú Bài) đã đi vào hoạt động, với công suất 600 tấn/ngày với nguồn vốn gần 1.700 tỷ đồng. Nhà máy hiện nay không chỉ giúp TP. Huế chỉ giúp giảm gánh nặng rác thải sinh hoạt mà còn phát điện khoảng 12 MW, góp phần bổ sung năng lượng sạch cho lưới điện quốc gia.
Ngoài ra, TP. Huế có 6 KCN phần lớn đã, đang đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn. Đây là kết quả của sự kiên quyết của chính quyền trong nhiều năm qua với mục tiêu “không đánh đổi môi trường lấy dự án”.
Cùng với các DA hạ tầng, các phong trào làm sạch môi trường cộng đồng ở Huế đã trở thành điểm sáng được nhiều tỉnh, thành khác học tập. Đáng kể từ năm 2019, phong trào “Ngày Chủ nhật xanh” ra đời đến nay đã trở thành hoạt động thường xuyên, huy động hàng chục nghìn lượt người dân, học sinh, sinh viên, đoàn viên, thanh niên... tham gia làm sạch đường phố, bờ sông, trồng cây xanh.
Đạt nhiều kết quả, song công tác BVMT ở TP. Huế vẫn còn đối mặt với những khó khăn nhất định; ngân sách chi cho môi trường đã tăng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, chưa đủ để giải quyết các vấn đề cấp bách về BVMT.
Trước hết là nước thải sinh hoạt, hiện ngoài khu vực đô thị thì vùng ven đô và nông thôn lượng nước thải chưa có hệ thống thu gom, xử lý. Phần lớn nước thải xả trực tiếp ra kênh, cống gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề này đặt ra thách thức đối với chất lượng nguồn nước một số lưu vực sông, hồ trên địa bàn, đặc biệt vào mùa nắng, gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Với chất rác thải sinh hoạt (bao gồm chất thải rắn), hiện bình quân mỗi ngày ở TP. Huế phát sinh hơn 700 tấn, nhưng tỷ lệ phân loại rác tại nguồn (PLRTN) còn thấp, dù thời gian qua nhiều phường, xã nội đô hưởng lợi từ DA “Huế đô thị giảm nhựa” hỗ trợ về trang thiết bị, được tập huấn cách thu gom, phân loại khá lớn. Riêng rác thải xây dựng hiện chưa có nơi xử lý chuyên biệt, dẫn đến tình trạng đổ không đúng nơi quy định. Bên cạnh đó, một số CCN, làng nghề vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm cục bộ.
Việc giám sát, chế tài từ chính quyền địa phương còn bất cập, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp lén lút xả thải vào ban đêm. Nguyên nhân này có thể thấy thời gian qua việc mời gọi, huy động nguồn lực, xã hội hóa đầu tư công trình xử lý nước thải, rác thải ở các CCN-làng nghề còn hạn chế.
Phong trào “Ngày Chủ nhật xanh”, “Không dùng túi ni lông và đồ nhựa một lần sử dụng”… tuy lan tỏa mạnh mẽ nhưng vẫn chưa đem lại kết quả như kỳ vọng, nhất là việc hạn chế dùng đồ nhựa một lần vẫn còn phổ biến. Việc duy trì PLRTN còn hạn chế, dẫn đến kết quả chưa bền vững.
Trước thực trạng này, thành phố đã đưa ra nhiều giải pháp. Cụ thể, TP. Huế đặt mục tiêu nâng tỷ lệ nước thải được xử lý lên gần 100% vào năm 2030. Các DA thu gom, xử lý nước thải ở các địa phương, KCN, CCN và làng nghề tiếp tục được quan tâm quy hoạch, chú trọng đầu tư hợp lý. Với rác thải, thành phố tiếp tục mở rộng mô hình PLRTN ở các phường, xã trung tâm đến ven đô; đồng thời triển khai chương trình giảm rác thải nhựa ở trường học, cơ quan, chợ, siêu thị… Để làm tốt công tác này, thành phố giao các sở, ngành chức năng rà soát, đồng bộ hóa các quy hoạch; điều chỉnh các chương trình, kế hoạch BVMT phù hợp, thống nhất với quy hoạch chung của thành phố. Bên cạnh đó, tập trung tháo gỡ “điểm nghẽn” pháp lý, vướng mắc thủ tục đầu tư các DA môi trường; hoàn thiện, ban hành chính sách khuyến khích xã hội hóa đầu tư công trình BVMT.
Kỳ 2: Hướng đến tăng trưởng xanh
Nguồn Thừa Thiên Huế : https://huengaynay.vn/e-magazine/bao-ve-moi-truong-de-phat-trien-ben-vung-ky-1-giai-quyet-cac-van-de-ve-moi-truong-cap-bach-158775.html