Thực tiễn đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ bảo đảm việc áp dụng pháp luật đúng đắn mà còn phải hướng tới mục tiêu công bằng, nhân văn, lấy con người làm trung tâm. Với chức năng hiến định của mình, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã và đang khẳng định vai trò quan trọng trong kiểm sát tố tụng dân sự, qua đó góp phần bảo vệ hiệu quả người yếu thế trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Kịp thời phát hiện dấu hiệu có thể dẫn đến xâm hại quyền lợi của phụ nữ
Với sự vào cuộc của tổ chức Công đoàn, phụ nữ ngành xây dựng Hà Nội có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần. Ảnh: PV
Theo số liệu công bố ngày 24- 12 tại hội nghị tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, từ ngày 1-12-2015 đến ngày 1-7-2025, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã thụ lý hơn 2,19 triệu vụ việc hôn nhân và gia đình theo thủ tục sơ thẩm; trong đó đã kiểm sát việc giải quyết trên 96,8% số vụ. Ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, tỷ lệ kiểm sát giải quyết đều đạt từ 96% đến 100%.
Đáng chú ý, hơn một nửa số vụ việc được Tòa án công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự. Với các tranh chấp, tập trung vào các vấn đề ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung khi ly hôn hoặc sau ly hôn. Những tranh chấp đặc thù hơn như xác định cha, mẹ, con; thay đổi người trực tiếp nuôi con; hủy kết hôn trái pháp luật; tranh chấp liên quan đến kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng lại có tính chất rất phức tạp, nhạy cảm, dễ tác động trực tiếp đến quyền lợi của các nhóm yếu thế.
Trong bối cảnh đó, việc kiểm sát chặt chẽ quá trình giải quyết của Tòa án, bảo đảm các phán quyết không làm tổn hại đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em và những người yếu thế khác được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Kiểm sát.
Thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân đặc biệt chú trọng kiểm sát ngay từ khâu thụ lý, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và tư cách tham gia tố tụng của các đương sự. Đây là những vấn đề mang tính “then chốt”, quyết định trực tiếp đến việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý của các bên, nhất là đối với những người ở vị thế yếu hơn trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Kiểm sát viên khi được phân công giải quyết vụ việc đã tập trung làm rõ các yếu tố cơ bản như thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp; bản chất yêu cầu ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ chồng; nguồn gốc hình thành tài sản; phân biệt tài sản chung – tài sản riêng; nghĩa vụ tài chính chung; điều kiện nuôi con, nguyện vọng của con từ đủ 7 tuổi trở lên; khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng… Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên kịp thời phát hiện các dấu hiệu có thể dẫn đến việc xâm hại quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người cao tuổi, người mắc bệnh hiểm nghèo.
Không chỉ dừng lại ở việc “kiểm tra tính hợp pháp”, hoạt động kiểm sát ngày càng hướng tới bảo đảm “tính công bằng thực chất”, chú trọng yếu tố nhân văn trong từng phán quyết. Điều này thể hiện rõ qua việc Viện Kiểm sát nhân dân đã ban hành hơn 1.200 kháng nghị phúc thẩm, gần 170 kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm liên quan đến các vụ việc hôn nhân và gia đình, với tỷ lệ kháng nghị được chấp nhận trên 80%. Bên cạnh đó, hàng trăm kiến nghị, thông báo rút kinh nghiệm đã được ban hành nhằm khắc phục vi phạm, phòng ngừa sai sót tương tự trong tương lai.
Chỉ rõ những vi phạm
Thực tiễn kiểm sát cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn không ít vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình. Các vi phạm về tố tụng phổ biến như: không thụ lý hoặc bỏ sót yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ; không lấy ý kiến con từ đủ 7 tuổi trở lên theo quy định.
Về nội dung, những sai sót thường gặp là việc xác định chưa đúng, chưa đủ tài sản chung của vợ chồng; phân chia tài sản thiếu cân nhắc đến công sức đóng góp và hoàn cảnh thực tế của người vợ; chưa bảo đảm đầy đủ quyền lợi của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; tuyên mức cấp dưỡng chưa phù hợp với nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và khả năng thực tế của người có nghĩa vụ.
Những vi phạm này, nếu không được kịp thời phát hiện và khắc phục, sẽ trực tiếp làm gia tăng sự bất bình đẳng, khiến các nhóm yếu thế tiếp tục chịu thiệt thòi ngay trong chính quá trình tìm kiếm công lý.
Bà Lã Thị Tú Anh, Kiểm sát viên cao cấp, Phó Vụ trưởng Vụ Kiểm sát án dân sự (Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao), cho hay, một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các luật liên quan chưa theo kịp thực tiễn xã hội đang thay đổi nhanh chóng. Điển hình là Luật Hôn nhân và gia đình 2014 không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam các cặp đôi đồng tính, song tính, chuyển giới chung sống với nhau khá nhiều. Điều này dẫn đến các vấn đề phát sinh từ hôn nhân đồng giới như tài sản, con chung, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, quyền thừa kế khi một trong hai người chết… mà chưa có điều luật cụ thể điều chỉnh.
Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân thì được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”. Tuy nhiên, Điều 25 Luật Hộ tịch lại quy định “Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt”. Như vậy, quy định tại hai điều luật này là mâu thuẫn nhau. Luật Hôn nhân và gia đình thì sử dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý để thừa nhận con chung của vợ chồng nhưng Luật Hộ tịch lại bắt buộc phải có “chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con”. Các quy định này dẫn đến việc xác định cha, mẹ, con giữa Tòa án và cơ quan hộ tịch không thống nhất với nhau và trong nhiều trường hợp sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người con.
Đặc biệt, thiếu cơ chế cho Viện kiểm sát tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự ngay từ ban đầu. Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định khi Tòa án nhận đơn khởi kiện phải thông báo cho Viện kiểm sát; quy định Tòa án gửi Thông báo thụ lý vụ việc (Điều 196, Điều 365), văn bản trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho Viện kiểm sát (Điều 192, Điều 364), nhưng không quy định Tòa án phải gửi các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Viện kiểm sát. Do đó, Viện kiểm sát không đủ cơ sở để kiểm sát việc thụ lý...
Thực tế trên cho thấy, trong bối cảnh yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng cao, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân không chỉ dừng lại ở việc “giữ đúng pháp luật” mà còn phải góp phần lan tỏa các giá trị công bằng, nhân văn. Những kết quả đạt được, cùng với các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi, là nền tảng quan trọng để ngành Kiểm sát tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò của mình trong bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân - đặc biệt là quyền của những người yếu thế trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Hà Phong