Bảo vệ và phát triển không gian Văn hóa Đền Hùng trong kỷ nguyên vươn mình (Kỳ 2)

Bảo vệ và phát triển không gian Văn hóa Đền Hùng trong kỷ nguyên vươn mình (Kỳ 2)
18 giờ trướcBài gốc
Kỳ 2: Du lịch Đền Hùng: Nhiều khách, ít sinh kế
Di sản chưa “sống” cùng dân
Một buổi trưa giữa tháng Bảy, khi miền Bắc vào độ nắng gắt, oi ả, khuôn viên Khu di tích Đền Hùng vẫn mát rượi nhờ bóng rợp của hàng ngàn cây cổ thụ. Gió len qua tán lá xanh, mang theo hương đất, khiến không gian vừa thanh mát vừa linh thiêng. Đáng lẽ nơi đây phải là điểm hành hương lý tưởng, kết nối tâm linh với trải nghiệm trong lành. Nhưng thực tế lại phủ lên vùng đất Tổ một gam màu trái ngược: thưa vắng, đơn điệu và thiếu sức sống.
Trong khuôn viên rộng hàng trăm héc-ta, thiếu bảng chỉ dẫn khiến nhiều du khách phải dò đường hoặc nhờ tới các “cò” tự phát. Không ít người cảm thấy lạc lõng giữa chốn linh thiêng. Anh Hoàng Văn Tâm, du khách từ Cà Mau, chia sẻ: “Vượt nghìn cây số về Đất Tổ, tôi mong được nghe chuyện cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ, nhưng chỉ biết leo đền, thắp nhang. Cảm giác như đã lỡ mất điều gì thiêng liêng mà không ai giúp mình hiểu.”
Bà Nguyễn Thị Hải, nguyên cán bộ Khu di tích Đền Hùng, nay đã nghỉ hưu và mở một quầy lưu niệm nhỏ trước cổng đền Mẫu, chia sẻ: “Ngày lễ thì đông nghẹt, còn lại thì đìu hiu, khách lẻ vào không ai hướng dẫn. Không có thuyết minh viên thì sinh ra cò mồi dẫn sai cả nghi lễ. Có người bị “cò” dắt từ đền Mẫu xuống đền Hạ rồi bảo là đền Thượng. Đa phần du khách đến thắp hương rồi đi ngay, chẳng cảm được hồn cốt nơi này.”
Câu chuyện của bà Hải và anh Hoàng Văn Tâm phản ánh một nghịch lý: mùa lễ hội, khách về Đất Tổ nườm nượp; nhưng phần lớn thời gian còn lại trong năm, Khu di tích lịch sử Đền Hùng lại rơi vào cảnh thưa vắng. Trong khi đó, Nhà nước đã đầu tư cơ sở hạ tầng khang trang, bộ máy Ban Quản lý Khu di tích với gần 200 cán bộ, nhân viên thường xuyên chăm sóc cảnh quan, vận hành khuôn viên rộng hàng trăm héc-ta, phục vụ lễ bái… thì hiệu quả khai thác du lịch vẫn chưa tương xứng.
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ, mỗi năm Đền Hùng đón trên 7 triệu lượt khách, nhưng thời gian lưu trú bình quân chỉ 1,2–1,5 ngày, chi tiêu chưa tới 300.000 đồng/người, thấp hơn nhiều so với các điểm du lịch tương đương như Tràng An hay Sa Pa. Di sản có “lượng” nhưng chưa có “lực”, thiếu những sản phẩm văn hóa đặc sắc để níu chân du khách, chưa mang lại sinh kế bền vững cho cộng đồng và lan tỏa giá trị di sản một cách sống động.
Thực tế này phần nào bắt nguồn từ sự thiếu vắng những giải pháp quảng bá bài bản, cũng như một chiến lược phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng gắn chặt với bản sắc văn hóa vùng miền. Người dân địa phương, lẽ ra phải là lực lượng trung tâm trong việc lan tỏa giá trị di sản nhưng lại chưa thực sự nhập cuộc một cách chủ động và bền bỉ. Nhiều người vẫn nhìn du lịch như một “dịp kiếm thêm”, chạy theo doanh số, tranh giành khách, mà chưa hình thành được ý thức coi trọng việc giới thiệu di tích, giữ chân du khách là trách nhiệm, là nét văn hóa và cũng là cơ hội phát triển lâu dài.
Trong khi đó, ở nhiều địa phương khác, mỗi người dân tham gia kinh doanh dịch vụ tại di tích đều trở thành một “hướng dẫn viên bản địa”, không chỉ thuần thục kỹ năng phục vụ, mà còn am hiểu tường tận giá trị lịch sử văn hóa của vùng đất họ đang sống và sẵn sàng chia sẻ niềm tự hào ấy với du khách. Sự khác biệt nằm ở nhận thức và đó cũng chính là mấu chốt để phát triển du lịch di sản một cách thực chất.
Bên cạnh đó, những vấn đề cố hữu như rác thải sau lễ hội, thiếu vệ sinh công cộng, giao thông lộn xộn tại các bãi gửi xe, lực lượng phục vụ mỏng và thái độ chưa chuyên nghiệp… cũng đang ảnh hưởng trực tiếp đến trải nghiệm của du khách. Nếu không sớm cải thiện, những điểm trừ này sẽ làm lu mờ giá trị linh thiêng và chiều sâu văn hóa vốn là thế mạnh cốt lõi của Đền Hùng.
Mặt khác, xe điện – phương tiện kết nối các điểm trong khu di tích hiện vẫn phủ bạt vì chưa hoàn thiện thủ tục pháp lý. Trong khi các phương tiện cơ giới bị cấm hoàn toàn, du khách buộc phải đi bộ giữa các điểm cách nhau từ 2–3 km như đền Mẫu, đền Hùng, đền Lạc Long Quân.
Ông Phạm Tiến Đạt, Giám đốc Khu di tích lịch sử Đền Hùng, trăn trở: “Hạ tầng cơ sở và công tác quản lý còn nhiều bất cập. Xe điện phải dừng hoạt động do chưa kiểm định, các tuyến kết nối liên vùng cải thiện chậm; hệ thống chiếu sáng, cấp nước thiếu đồng bộ. Trong vùng lõi di tích có hơn 4.500 người dân sinh sống, gây áp lực lớn lên công tác bảo tồn, tình trạng san gạt đất, xây dựng trái phép vẫn diễn ra. Đáng lo ngại hơn, hàng trăm hộ bị thu hồi đất hoặc nằm trong vùng lõi di tích vẫn phải sống dựa vào nông, lâm nghiệp, không có sinh kế thay thế. Điều này tiềm ẩn nguy cơ cao về phá rừng, cháy rừng, chảy máu lâm sản. Nếu không tạo ra nguồn thu nhập ổn định từ chính di sản thì việc bảo tồn lâu dài sẽ rất mong manh. Cùng với đó, cơ chế phối hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp và giới chuyên gia còn lỏng lẻo, khiến nhiều chiến lược phát triển du lịch chỉ dừng lại ở hội thảo, thiếu hành động cụ thể.”
Hội thi làm bánh chưng, bánh giầy trong dịp Giỗ Tổ Hùng Vương, quy tụ các làng nghề truyền thống quanh Khu di tích về thi tài và dâng lễ Vua Hùng. Nghệ nhân Nguyễn Văn Ninh – hậu duệ đời thứ năm của dòng họ làm bánh ở làng cổ Hùng Lô chia sẻ: “Tôi làm bánh từ nhỏ, ban đầu chỉ để cúng Tổ. Giờ du khách thích trải nghiệm gói bánh, thắp hương, mang sản vật về làm quà. Nhưng đông khách chỉ vào dịp lễ, còn lại cả năm thì vắng. Làm nghề thì quý, nhưng sống được với nghề mới là chuyện khó.”
Không chỉ giữ nghề gói bánh chưng, gia đình ông Ninh còn am hiểu tích làng, chuyện Hùng Vương và luôn sẵn lòng đưa khách tham quan đình cổ hơn 300 năm tuổi. Ông mong vừa sống được từ nghề truyền thống, vừa truyền cảm hứng để du khách quay lại Đất Tổ. Ông chia sẻ: “Nếu di sản là tài sản quốc gia, thì người dân phải được coi là người giữ kho báu ấy. Muốn họ gìn giữ, phải cho họ sống được bằng di sản. Chúng tôi không muốn chỉ làm lẻ tẻ trong làng, mà cần sự đồng hành, định hướng của Nhà nước để được tham gia vào chuỗi bảo tồn và phát triển lâu dài.”
Dù có sản phẩm hoặc hình ảnh biểu trưng, quầy lưu niệm tại Đền Hùng vẫn thiếu sự đa dạng và chiều sâu văn hóa. Sản phẩm phần lớn còn đơn điệu, chưa thực sự kể được câu chuyện lịch sử Hùng Vương một cách sinh động. Dịch vụ lưu trú quanh khu vực di tích còn hạn chế, hoạt động giải trí về đêm gần như vắng bóng, khiến phần lớn du khách chỉ ghé qua trong ngày rồi rời đi.
Ngay cả di sản phi vật thể hát Xoan, được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp từ năm 2011 và chính thức trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại từ năm 2017, cũng đang loay hoay tìm chỗ đứng trong đời sống hiện đại.
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lịch, một trong những người hiếm hoi còn giữ được lối hát Xoan cổ của làng Kim Đức chia sẻ: “Tôi vẫn hát, vẫn dạy các cháu, nhưng chưa có tour nào đưa khách đến nghe thường xuyên. Muốn hát Xoan sống, phải gắn với trường học, với tour du lịch, với không gian công cộng, chứ không thể chỉ sống qua vài dịp lễ hội.”
Những trăn trở ấy không chỉ của riêng ông Ninh, bà Lịch, mà là khát vọng chung của nhiều hộ dân sống trong vùng lõi và phụ cận di tích. Trong bán kính chưa đầy 10 km tính từ Đền Hùng có tới 345 điểm thờ Vua Hùng, hàng trăm đình, đền, miếu và 97 làng nghề truyền thống: từ gói bánh chưng, bánh giầy, dệt vải, rèn dao, nấu rượu đến Hát Xoan, cấy lúa theo truyền thuyết. Tuy nhiên, phần lớn chưa được phát triển thành sản phẩm du lịch bài bản. Người dân làm du lịch còn manh mún, thiếu kỹ năng và định hướng. Các hoạt động như học gói bánh, nghe hát Xoan, hóa thân thành nông dân thời Vua Hùng… vẫn vắng bóng trong tour tuyến. Di sản thì phong phú, nhưng trải nghiệm còn đơn điệu, khiến phần lớn du khách chỉ ghé qua, ít có động lực quay lại hay lưu trú lâu hơn tại vùng đất Tổ.
Những bài học sống động trong bảo tồn, phát triển di sản
Dẫn học sinh lớp 9 thực địa về cội nguồn tại khu di tích Đền Hùng, thầy Nguyễn Văn Thắng, giáo viên dạy sử ở Hà Nam, không khỏi bối rối: “Không có sơ đồ rõ ràng, bảng thông tin thì mờ nhòe, nhiều điểm tham quan không có người thuyết minh. Học sinh hỏi mà tôi đành tra Google.” Điều nghịch lý là một trong những điểm hành hương thiêng liêng bậc nhất lại thiếu những công cụ cơ bản để truyền tải chiều sâu lịch sử.
Gần 30 năm gắn bó với nghề, ông Thắng đã đặt chân tới nhiều di tích trên cả nước để tìm hiểu và giảng dạy. Ông nhớ lại: “Huế từng rơi vào cảnh tương tự: đông khách dịp lễ, thưa vắng ngày thường, thời gian lưu trú ngắn. Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi khi Huế mạnh dạn “đánh thức” di sản: khai thác đêm Hoàng thành, tổ chức trình diễn nghệ thuật thực cảnh, chiếu sáng các không gian cung đình. Sở Du lịch Thừa Thiên Huế còn bắt tay với doanh nghiệp phục dựng lễ nghi triều Nguyễn – vừa giàu tính thuyết phục, vừa chạm tới cảm xúc người xem.” Đặc biệt, Huế xác định người dân là trung tâm của chiến lược bảo tồn: hàng nghìn hộ vùng lõi và vùng đệm tham gia làm du lịch cộng đồng, mở homestay, hướng dẫn viên, làm bánh truyền thống. Thu nhập của người dân tăng đều mỗi năm – chứng minh rằng, di sản hoàn toàn có thể trở thành nền tảng sinh kế bền vững nếu được đầu tư đúng hướng.
Câu chuyện của Huế không phải ngoại lệ. PGS.TS Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia, chia sẻ: “Với bề dày văn hiến hàng nghìn năm, Việt Nam sở hữu hệ thống di tích phong phú trải dài từ Bắc vào Nam, từ thời tiền sử đến hiện đại. Nếu biết khai thác khéo léo, mỗi di tích đều có thể trở thành “điểm dừng chân” thực thụ, chứ không chỉ là nơi đến và đi”. Ông dẫn chứng: tại Hà Nội, Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Hoàng thành Thăng Long đã chuyển mình rõ nét: Từ chốn “thắp hương, chụp ảnh” sang không gian trải nghiệm sống động. Nhờ ứng dụng công nghệ như bản đồ QR, thiết bị thực tế ảo, ứng dụng dẫn lối, du khách có thể “du hành ngược thời gian”, khám phá kiến trúc cổ, lắng nghe tích xưa qua giọng kể nghệ sĩ, cảm nhận đời sống khoa bảng, cung đình. Những công nghệ đó không hoạt động đơn lẻ, mà được tích hợp vào hệ thống tour tuyến kết nối di tích – phố cổ – hồ Gươm – làng nghề… hình thành chuỗi trải nghiệm sâu sắc, cuốn hút. Sự bắt tay giữa các cơ quan quản lý, nhà khoa học và doanh nghiệp đã tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc như: tour đêm kể chuyện bằng ánh sáng ở Văn Miếu, biểu diễn nghệ thuật tại Hoàng thành, các tour theo mùa… giúp mỗi lần ghé thăm là một lần khám phá mới mẻ.
Thành công tại Việt Nam còn được soi chiếu rõ hơn khi đặt trong tương quan quốc tế. Tại Nhật Bản, đền Fushimi Inari ở Kyoto là minh chứng điển hình: dù là nơi linh thiêng bậc nhất, nhưng đền không khép mình. Hệ thống chỉ dẫn thông minh tích hợp đa ngôn ngữ, màn hình cảm ứng kể lại lịch sử hàng trăm năm, ứng dụng AR/VR cho phép khách hiểu sâu về cấu trúc, văn hóa đền. Bao quanh là khu chợ truyền thống – nơi người dân bán bánh mochi, đồ thủ công, trang phục yukata gắn biểu tượng đền. Đền thiêng trở thành “trục” phát triển du lịch – gắn liền với sinh kế cộng đồng. Người dân sống được bằng di sản, nhờ di sản.
Ngay cả Trung Quốc – nơi từng bị phê phán vì xu hướng thương mại hóa di tích cũng đã rút ra bài học điều chỉnh. Tử Cấm Thành không chỉ là điểm check-in mà là một hệ sinh thái sống động: hàng trăm sản phẩm lưu niệm được nghệ nhân phục dựng từ cổ vật, hơn 200 thiết bị công nghệ phục vụ khách tham quan – từ bản đồ tương tác, app kể chuyện bằng giọng các nghệ sĩ nổi tiếng, tới livestream các phòng trưng bày. Gần đây, bảo tàng còn hợp tác với các hãng phim hoạt hình để tái hiện đời sống cung đình bằng phim ngắn, vừa trẻ trung, vừa không đánh mất chiều sâu lịch sử.
Theo PGS.TS Đặng Văn Bài, điều cốt lõi là: “Bảo tồn không phải là cất di sản trong tủ kính. Di sản chỉ sống khi được đánh thức mỗi ngày bằng trí tưởng tượng và công nghệ.” Ông nhấn mạnh: Chuyển đổi số không dừng ở kỹ thuật như quét 3D hay tái dựng mô hình, mà phải là quá trình tái sinh không gian văn hóa. Ở đó, du khách có thể cảm nhận khí thiêng, tương tác với không gian linh thiêng, và đối thoại với lịch sử. “Công nghệ phải là công cụ tiếp lửa cho văn hóa, không được biến di sản thành sân khấu giải trí đơn thuần. Mọi sản phẩm số cần bám rễ sâu vào bản sắc, nghi lễ, tín ngưỡng gốc. Chỉ khi nhà quản lý có tầm nhìn và trái tim trân quý, công nghệ mới làm sâu thêm giá trị thay vì làm phai nhạt nó.”
Báo cáo của Tổng cục Du lịch chỉ ra, những điểm đến tạo được dấu ấn sâu sắc đều có một đặc điểm chung: kể được một câu chuyện đủ chạm đến cảm xúc. Không phải nơi nào nhiều di tích cũng giữ được khách. Vấn đề là: câu chuyện ấy được kể ra sao, bằng hình thức nào, có sự đồng hành của công nghệ và người dân không? Những “mô hình mẫu” như Huế, Hội An, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, hay đền Fushimi Inari đều chỉ ra điều đó. Di sản sẽ chỉ là “vỏ” nếu không có hồn cốt được tiếp lửa từ người kể chuyện, từ những trải nghiệm tinh tế, từ cảm xúc cộng hưởng của du khách với cộng đồng.
Không gian Đền Hùng rộng lớn, khang trang, thoáng mát và uy nghiêm chỉ cách Thủ đô Hà Nội chưa đầy 100 km nhưng vẫn vắng bóng du khách ngoài mùa lễ hội. Dù cảnh quan được đầu tư chỉnh trang, nơi đây vẫn thiếu một mạch cảm xúc liền mạch và chiều sâu văn hóa đủ sức níu chân người hành hương trở về cội nguồn.
Từ những bài học ấy, câu hỏi đặt ra là: Đền Hùng – một trong những “trái tim văn hóa” của dân tộc đang thiếu điều gì để trở thành không gian sống động, có chiều sâu, giàu sức sống và đủ sức níu chân du khách?
Theo Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Ứng dụng Văn hóa và Du lịch, vấn đề cốt lõi không nằm ở lượng khách: “Đền Hùng không thiếu khách. Nhưng cái thiếu là hành trình dẫn dắt cảm xúc từ tri thức đến linh cảm.” Ông phân tích, Đền Hùng không thiếu tiềm năng, từ giá trị tín ngưỡng Hùng Vương đã được UNESCO ghi danh đến vị trí tâm linh đặc biệt gắn liền với quốc hồn quốc túy. Nhưng điều đang thiếu là một hệ sinh thái du lịch văn hóa – nơi người dân không chỉ đứng ngoài nhìn, mà là chủ thể kiến tạo và truyền tải bản sắc. Muốn du khách nhớ, phải chạm được cảm xúc. Chạm cảm xúc không nhất thiết phải hoành tráng, mà phải đúng chỗ. Một app kể chuyện Hùng Vương bằng giọng kể dân gian, một không gian để du khách thử gói bánh chưng, nghe hát xoan, xem trình diễn rước kiệu, hay thậm chí một đêm trải nghiệm tại Đền Hùng với ánh sáng và âm thanh dẫn chuyện… sẽ giúp khơi dậy sự kết nối từ bên trong tâm hồn của mỗi du khách. Tiến sĩ Trần Hữu Sơn nhấn mạnh: “Chuyển đổi số là cánh tay nối dài cho văn hóa, không phải để thay thế mà để hỗ trợ cảm thụ. Hãy bắt đầu từ điều nhỏ nhưng xuất phát từ thực tế từ chính nơi cuội nguồn dân tộc. Một tour học sinh về nguồn có hướng dẫn bằng thiết bị AR/VR, bản đồ QR tích hợp tích truyện, trò chơi hóa kiến thức lịch sử… Đó là cách để lịch sử không còn khô khan, mà trở thành trải nghiệm sống.”
Theo Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, điều quan trọng là cần một tầm nhìn tổng thể: từ quản lý di tích, thiết kế trải nghiệm đến liên kết vùng với làng nghề, cộng đồng dân cư. “Một không gian tín ngưỡng sống là không gian có hơi thở con người. Người dân phải sống được từ di sản, làm bánh, hướng dẫn, biểu diễn, bán sản phẩm văn hóa địa phương…. Có như vậy, Đền Hùng mới thực sự trở thành nơi không chỉ để “đến” mà còn để “ở lại”, “trở lại” và “sống cùng”.
Kỳ cuối: Đền Hùng - Định hình trung tâm di sản trong kỷ nguyên số
Nguyễn Huệ - Trần Thắng
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/bao-ve-va-phat-trien-khong-gian-van-hoa-den-hung-trong-ky-nguyen-vuon-minh-ky-2-a29638.html