Qua kiểm toán Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2023, Kiểm toán Nhà nước chỉ rõ, tổng nguồn vốn kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2023 là 55.582,67 tỷ đồng, giải ngân trong năm 44.086,91 tỷ đồng, đạt 79,3%.
Trong khi Công văn số 361 ngày 3/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu "các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán…; bố trí ngân sách Trung ương và triển khai các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, giải ngân 100% số vốn được kéo dài".
Kiểm toán Nhà nước nhận định, việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn ngân sách Trung ương còn bất cập do thiếu quy định cụ thể về mốc thời gian các đơn vị báo cáo và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) rà soát, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ đối với các dự án kéo dài thời gian giải ngân.
Kiểm toán Nhà nước chỉ rõ hàng loạt sai sót trong chi đầu tư phát triển năm 2023 (Ảnh: Hữu Thắng).
Đối với nguồn vốn năm 2023 được phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2024, tại một số địa phương được kiểm toán đã thực hiện kéo dài kế hoạch vốn chưa đúng quy định hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng; phân loại cơ cấu nguồn vốn kéo dài chưa phù hợp (tổng hợp các dự án bổ sung có mục tiêu cho huyện vào ngân sách cấp tỉnh).
Ngoài ra, có 10 dự án được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo kéo dài nguồn ngân sách Trung ương song chưa đủ cơ sở xác định thuộc đối tượng kéo dài theo quy định số tiền 205,12 tỷ đồng.
Qua rà soát năm 2022, 2023 cho thấy, đến tháng 5 hàng năm, Bộ mới ban hành thông báo kéo dài, dẫn đến thời gian giải ngân chỉ còn khoảng hơn 6 tháng, ảnh hưởng đến tỉ lệ giải ngân nguồn vốn kéo dài.
Đến tháng 5 hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới ban hành thông báo kéo dài, dẫn đến thời gian giải ngân chỉ còn khoảng hơn 6 tháng, ảnh hưởng đến tỉ lệ giải ngân nguồn vốn kéo dài.
Chưa phản án đúng thực trạng nợ đọng xây dựng cơ bản
Qua kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước nhận định, công tác tổng hợp, theo dõi nợ đọng xây dựng cơ bản chưa chính xác, chưa phản ánh đúng thực trạng nợ (báo cáo nợ đọng xây dựng cơ bản đến 31/12/2022 là 4.500 tỷ đồng, trong khi năm 2023 đã bố trí 6.100 tỷ đồng để trả nợ đọng xây dựng cơ bản song số nợ đọng đến 31/12/2023 vẫn còn 8.657 tỷ đồng).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các đơn vị làm rõ số liệu nợ đọng theo đúng quy định tại Luật Đầu tư công năm 2014 và 2019, trách nhiệm và biện pháp xử lý trong trường hợp làm phát sinh nợ đọng xây dựng cơ bản trái quy định.
Đồng thời, Quốc hội cũng đã yêu cầu Chính phủ rà soát, xác định chính xác số nợ đọng xây dựng cơ bản vốn NSNN để báo cáo Quốc hội song đến thời điểm kiểm toán (tháng 3/2025) Chính phủ vẫn chưa báo cáo.
Tuy nhiên, theo Kiểm toán Nhà nước, cơ sở xác định nợ đọng xây dựng cơ bản tại Luật Đầu tư công năm 2014 và 2019 chưa rõ ràng là xác định theo Kế hoạch đầu tư công trung hạn hay Kế hoạch đầu tư công hàng năm, phải đến Luật Đầu tư công năm 2024 ban hành mới quy định cụ thể về nợ đọng xây dựng cơ bản.
Có địa phương có 5 dự án nợ khối lượng 3,18 tỷ đồng nhưng không dự kiến bố trí vốn trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025.
Kết quả kiểm toán cho thấy, tính đến 31/12/2023, một số bộ, cơ quan Trung ương, địa phương còn nợ đọng xây dựng cơ bản lớn (Bộ Xây dựng 15,07 tỷ đồng, Bộ NN&PTNT 27,12 tỷ đồng, Bộ Công Thương 3,63 tỷ đồng, Bộ Tư pháp 1,98 tỷ đồng...; Tp.HCM 61,29 tỷ đồng, Hải Phòng 575,906 tỷ đồng, Huế 7,37 tỷ đồng, Quảng Bình 320,84 tỷ đồng, Quảng Trị 27,82 tỷ đồng, Nghệ An 77,89 tỷ đồng, Gia Lai 16,90 tỷ đồng, Tuyên Quang 462,85 tỷ đồng...; có bộ nợ đọng tới 986 tỷ đồng; có địa phương nợ đọng tới 804 tỷ đồng…).
Số nợ đọng xây dựng cơ bản trước 1/1/2015 được Kiểm toán Nhà nước xác nhận là 2.452,2 tỷ đồng, năm 2023 còn để phát sinh nợ (có địa phương phát sinh hơn 291 tỷ đồng).
Việc tổng hợp, theo dõi nợ đọng xây dựng cơ bản chưa đầy đủ, nguyên nhân do địa phương không kiểm tra, rà soát, tổng hợp báo cáo nợ đọng xây dựng cơ bản của cấp huyện, xã; số liệu nợ đọng xây dựng cơ bản đến 31/12/2023 tại các báo cáo giám sát đầu tư không trùng khớp, thậm chí có địa phương trong báo cáo đầu tháng 3/2024 nêu không có nợ đọng song tại náo cáo vào đầu tháng 10/2024 lại báo cáo có nợ đọng;
Có địa phương có 5 dự án nợ khối lượng 3,18 tỷ đồng nhưng không dự kiến bố trí vốn trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025.
Xây dựng và quản lý vốn đầu tư thiếu chặt chẽ
Đánh giá về hoạt động xây dựng và quản lý vốn đầu tư các dự án, Kiểm toán Nhà nước nêu rõ, công tác lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh dự án; khảo sát, lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế, dự toán còn nhiều hạn chế, thiếu sót, như tính sai khối lượng, áp dụng sai định mức, đơn giá xảy ra tại hầu hết các dự án được kiểm toán.
Áp dụng tiêu chuẩn không phù hợp; lập dự toán thiếu cơ sở; triển khai, nghiệm thu khi chưa được thẩm tra, phê duyệt...
Về lựa chọn nhà thầu, tại nhiều dự án chưa thực hiện hoặc chậm phê duyệt kế hoạch đấu thầu; một số công việc thuộc giai đoạn chuẩn bị đầu tư hoặc chủ đầu tư "tự thực hiện" không được lập và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu; xác định hình thức hợp đồng, phân chia gói thầu, áp dụng hình thức chỉ định thầu chưa phù hợp quy định; chưa nêu rõ thời gian cấp vốn để thanh toán cho nhà thầu; tổ chức lựa chọn nhà thầu khi chưa có kế hoạch vốn.
Phê duyệt giá gói thầu chưa đảm bảo quy định; hồ sơ mời thầu chưa cập nhật giá gói thầu; chỉ định thầu chưa đảm bảo điều kiện, chưa đúng hình thức được duyệt...
Tại nhiều dự án, việc ký kết hợp đồng xây dựng được thực hiện thiếu chặt chẽ, chưa đầy đủ nội dung hoặc nội dung không phù hợp quy định của hồ sơ yêu cầu; bổ sung một số điều khoản không phù hợp; ký khi chưa đảm bảo điều kiện; không phù hợp với hình thức hợp đồng trọn gói.
Về tiến độ, nhiều dự án chậm tiến độ so với thời gian phê duyệt ban đầu, trong đó có dự án chậm trên 5 năm. Nhiều dự án có tỉ lệ giải ngân vốn thấp, chưa đạt kế hoạch vốn được giao; sử dụng vốn không đúng nguồn, không đúng phạm vi dự án.
Nguyễn Thu Huyền