“Cộng đồng doanh nghiệp rất phấn khởi”, ông Hoàng Đức Vượng, Phó chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), mở đầu cuộc trò chuyện với TheLEADER về Đề án Phát triển kinh tế tư nhân, quyết sách quan trọng đang được gấp rút hoàn tất để trình Chính phủ xem xét trước 31/3/2025 và trình Bộ Chính trị phê duyệt trong tháng 4/2025.
Theo vị đại diện doanh nghiệp ngành hàng nhựa, thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Tổng bí thư Tô Lâm, nhiều chính sách mới đột phá đã được ban hành và triển khai một cách gấp rút.
Do đó, tuyên bố kinh tế tư nhân là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới sáng tạo của Tổng bí thư được ông Vượng cũng như cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp tin rằng sẽ là tiền đề cho những giải pháp quyết liệt mang tính căn cơ, then chốt, giúp cởi trói tiềm năng kinh tế tư nhân.
Để những giải pháp sẽ được cụ thể hóa tại Đề án Phát triển kinh tế tư nhân, ông Vượng đưa ra một số đề xuất, dựa trên những tâm tư, nhu cầu thực tế của cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp.
Tháo chốt thể chế
Đề án Phát triển kinh tế tư nhân tới đây được kỳ vọng sẽ giải quyết được vướng mắc về thể chế cho cộng đồng doanh nghiệp. Vậy ông có đề xuất chính sách cụ thể nào có thể là chìa khóa cho vấn đề nhức nhối này?
Ông Hoàng Đức Vượng: Không phải cá nhân tôi hay cộng đồng doanh nghiệp mà chính nhiều lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành đã chỉ ra, rào cản về thể chế đang là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Có thể thấy rõ điều này qua những thủ tục hành chính nhiêu khê, rắc rối, kéo dài có khi đến cả vài năm, gây phiền hà, tiêu tốn chi phí và quan trọng nhất là làm doanh nghiệp đánh mất thời cơ, cơ hội.
Doanh nghiệp tư nhân làm giàu cho đất nước. Họ làm ăn kinh doanh, kiếm tiền chân chính chính là đang giúp đất nước giàu mạnh hơn. Điều đó có nghĩa, doanh nghiệp tư nhân đánh mất cơ hội chính là đất nước chúng ta đánh mất cơ hội.
Doanh nghiệp tư nhân đánh mất cơ hội chính là đất nước chúng ta đánh mất cơ hội.
Ông Hoàng Đức Vượng, Phó chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam
Vì vậy, đề xuất đầu tiên của tôi dành cho Đề án Phát triển kinh tế tư nhân là tạo ra “luồng xanh” cho dự án đầu tư, không chỉ giới hạn ở “Điều khoản đầu tư đặc biệt” cho những dự án công nghệ cao tại Luật số 57/2024/QH15 được Quốc hội phê duyệt vào ngày 29 tháng 11 năm 2024.
Luồng xanh này có thể hiểu là nếu có dự án đầu tư, sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký đầu tư với ban quản lý khu công nghiệp thì được triển khai luôn, không phải chờ làm các thủ tục đầu tư và xin giấy phép phòng cháy chữa cháy, giấy phép môi trường... nữa.
Doanh nghiệp có thể bắt tay ngay vào việc xây dựng dự án, chỉ cần tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn đã ban hành để xây dựng dự án, các cơ quan quản lý chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, hướng dẫn doanh nghiệp, nếu phát hiện sai phạm, có thể xử phạt, điều chỉnh theo quy định hoặc dừng dự án đầu tư.
Sẽ có rất ít doanh nghiệp dám làm sai, gây rủi ro cho dự án đầu tư của chính mình. Doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ đầu tư, không bỏ lỡ cơ hội, nước ta có cơ hội hóa rồng.
Nên cho phép triển khai dự án đầu tư ngay sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký với ban quản lý khu công nghiệp, không phải chờ làm các thủ tục đầu tư và xin giấy phép. Ảnh: Hoàng Anh.
Tiếp theo, đề xuất thứ hai của tôi là miễn thanh tra, kiểm tra cho các doanh nghiệp trong 10 năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để tháo bỏ tâm lý sợ hãi đối với sự chồng chéo về chính sách và các điểm nghẽn về cơ chế. Nhiều chính sách mới đã, đang và sẽ được sửa đổi, ban hành, vì vậy chúng ta cần có thời gian quá độ, ưu tiên, khuyến khích phát triển.
Lực lượng tư nhân của Việt Nam có đến trên 5 triệu hộ kinh doanh, trong đó có những hộ có doanh thu lên đến cả trăm tỷ đồng. Họ “không chịu lớn”, không dám tiến lên thành lập doanh nghiệp vì sợ chính sách pháp luật chồng chéo, khó hiểu, sợ rủi ro làm sai, sợ bị thanh tra, kiểm tra.
Mặt khác, nỗi sợ lớn nhất khiến hộ kinh doanh không dám thành lập doanh nghiệp là sợ rủi ro phải chịu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt tù. Vì vậy, đi kèm với miễn giảm thanh, kiểm tra, đề xuất đưa vào luật, nếu doanh nghiệp làm sai thì chỉ chịu phạt tiền, có thể phạt nặng, phạt đến mức phá sản cũng được nếu lỗi sai nghiêm trọng nhưng tuyệt đối không xử phạt tù.
Bởi, chịu phạt tiền, chịu phá sản sẽ dễ chấp nhận hơn là phạt tù vì đó là danh dự của cá nhân, gia đình, dòng họ. Đây là nỗi lo sợ thường trực cho những cá nhân có mong muốn vươn lên, đóng góp cho sự phát triển của đất nước nhưng phải vượt qua thách thức của một rừng luật mà chính cơ quan quản lý chưa chắc đã hiểu rõ.
Nếu miễn giảm gánh nặng thanh, kiểm tra và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tôi tin rằng sẽ tạo ra luồng sinh khí mới trong đầu tư sản xuất kinh doanh, huy động được nguồn lực lớn trong dân, sẽ có rất nhiều hộ kinh doanh sẵn sàng đăng ký thành lập doanh nghiệp. Như vậy, đến năm 2030, chúng ta sẽ có thêm hàng triệu doanh nghiệp, vượt qua mục tiêu của Chính phủ.
Tạo bệ đỡ cho doanh nghiệp tư nhân
Khó khăn của doanh nghiệp hiện nay không chỉ nằm ở thể chế mà còn là thiếu hụt năng lực công nghệ, quản lý, kinh nghiệm quản trị. Có giải pháp nào cho thực trạng này?
Ông Hoàng Đức Vượng: Tạo cơ chế thông thoáng rồi, chúng ta phải tạo thêm cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp. Do đó, đề xuất thứ ba của tôi là tạo cơ hội cho doanh nghiệp thông qua chính sách bắt buộc các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) liên doanh với doanh nghiệp Việt với tỷ lệ tối thiểu 30%, đặc biệt là các dự án công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng tiêu dùng, trừ các dự án FDI của các "đại bàng" có hàm lượng công nghệ cao, sở hữu công nghệ lõi mà chúng ta không có cơ hội yêu cầu họ liên kết, liên doanh với doanh nghiệp Việt.
Đề xuất này dựa trên thực trạng là nhiều năm nay, Việt Nam thu hút một lượng lớn FDI nhưng đóng góp của FDI có phần chưa tương xứng. Họ kéo theo cả “hệ sinh thái” vào Việt Nam để tạo ra chuỗi cung ứng riêng, nhiều dự án sản xuất, dịch vụ thông thường cũng do các FDI đầu tư 100% cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp Việt, đây là một trong những lý do doanh nghiệp Việt không lớn được.
Giá trị của nhiều doanh nghiệp FDI đem lại chủ yếu chỉ nằm ở tiền thuê đất và tạo việc làm cho người lao động. Trong khi, theo tôi, cái quan trọng nhất là FDI chuyển giao công nghệ, chuyển giao kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, quản trị cho chúng ta. Nếu không được liên doanh, liên kết, chúng ta sẽ hầu như không học hỏi được gì, khó có cơ hội phát triển, sánh vai với họ, làm giàu cho đất nước.
Đối với những doanh nghiệp FDI công nghệ lớn mà chúng ta không thể yêu cầu họ liên doanh thì chúng ta nên có cơ chế yêu cầu họ cho người Việt nắm một số vị trí lãnh đạo, chẳng hạn ông chủ tịch, tổng giám đốc là người nước ngoài thì ông phó chủ tịch, phó tổng giám đốc có thể là người Việt để có cơ hội học hỏi, đào tạo cho thế hệ tiếp theo.
Sắp tới, nhiều dự báo cho rằng, dòng vốn từ không chỉ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản mà còn từ Âu, Mỹ sẽ tiếp tục đổ vào Việt Nam. Nếu có chính sách như tôi đề xuất, chúng ta sẽ tận dụng được cơ hội chưa từng có để doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Lượng doanh nghiệp đạt đến con số hàng triệu như kỳ vọng của ông chắc hẳn sẽ tạo ra nguồn lực rất lớn để Việt Nam “hóa rồng” trong Kỷ nguyên mới. Thế nhưng, chúng ta làm cách nào để kiểm soát lực lượng doanh nghiệp khổng lồ này đi đúng hướng?
Ông Hoàng Đức Vượng: Bất cứ nước phát triển nào đều có những Hiệp hội ngành nghề mạnh, là cánh tay nối dài của Chính phủ để quản lý ngành hàng.
Tôi đề xuất xây dựng “Luật hội các ngành hàng sản xuất kinh doanh”. Doanh nghiệp muốn tham gia sản xuất, kinh doanh ở ngành hàng nào bắt buộc phải đăng ký và tham gia vào hiệp hội ngành hàng đó. Những hội doanh nghiệp ngành hàng này có hai vai trò chính.
Thứ nhất, quản lý sản lượng ngành hàng để tránh dư thừa, quản lý giá tối thiểu để tránh cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại đối với hàng hóa gia công, xuất khẩu, quản lý chất lượng hàng hóa để bảo vệ người tiêu dùng và thương hiệu Việt.
Thứ hai, Tham gia tư vấn xây dựng chính sách pháp luật một cách thiết thực, tham gia đàm phán các Hiệp ước kinh tế, xúc tiến thương mại và đầu tư, đào tạo và cấp chứng chỉ cho các hội viên, đoàn kết hỗ trợ hội viên gặp khó khăn.
Cần có luật riêng dành cho các hiệp hội để hiệp hội trở thành "cánh tay nối dài" của Nhà nước trong việc quản lý các ngành hàng sản xuất, kinh doanh. Ảnh: Hoàng Anh.
Quản lý sản lượng để tránh doanh nghiệp, người dân chạy theo xu hướng, thấy cái gì đang có giá cao là ồ ạt sản xuất, chỉ vì cái lợi ngắn hạn mà bỏ lỡ cơ hội phát triển lâu dài. Cái này dễ thấy nhất ở ngành nông nghiệp, chẳng hạn gần đây bà con đổ xô đi trồng sầu riêng vì sầu riêng bán giá cao quá, về lâu dài tiềm ẩn nguy cơ “được mùa mất giá”.
Quản lý về chất lượng thì quá rõ rồi. Sản xuất phải đảm bảo chất lượng để đảm bảo sức khỏe, an toàn của người tiêu dùng, để giúp doanh nghiệp tạo dựng uy tín, xây dựng thương hiệu, tạo ra năng lực cạnh tranh chân chính.
Trong mỗi ngành hàng, họ là người hiểu nhau nhất, hội mạnh mới nắm rõ được ông nào làm ăn đàng hoàng, ông nào chộp giật, biết tường tận ông nào bơm nước vào con tôm, ngâm sầu riêng trong hóa chất hay trộn phụ gia kém chất lượng vào sản phẩm.
Tiếp đó là giá tối thiểu, tức là thiết lập một mức giá sàn cho ngành hàng, tránh để doanh nghiệp phá giá để cạnh tranh với nhau. Bởi cạnh tranh phá giá là “cuộc đua xuống đáy”, về lâu dài chỉ lợi cho nước ngoài mà nhận thiệt hại về mình.
Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều hội như hiệp hội nhựa của chúng tôi hay hiệp hội thủy sản, hiệp hội dệt may. Tuy nhiên, muốn phát huy hai vai trò trên, cần phải có một luật riêng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để các hội ngành hàng thực sự trở thành lực lượng cạnh tranh mạnh của quốc gia mà Nhà nước không phải tốn một xu nào.
Doanh nghiệp có cơ chế, chính sách thông thoáng, có sự định hướng, hỗ trợ sẽ rất mạnh dạn để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Thế nhưng, khó khăn về tài chính đang cản bước không ít doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông có đề xuất giải pháp nào cho khó khăn về tài chính của doanh nghiệp?
Ông Hoàng Đức Vượng: Đề xuất thứ năm của tôi liên quan đến thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những cơ chế đột phá. Đừng sợ cơ chế đột phá sẽ gặp rủi ro, hãy mạnh dạn bảo lãnh đầu tư cho doanh nghiệp, nếu Nhà nước bảo lãnh cho vay 10 dự án mà có bảy dự án thành công là về tổng thể đã có lợi rồi.
Nếu Nhà nước bảo lãnh cho vay 10 dự án mà có bảy dự án thành công là về tổng thể đã có lợi rồi.
Ông Hoàng Đức Vượng, Phó chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam
Tôi đề xuất quỹ bảo lãnh tín dụng có quy mô đủ lớn và minh bạch, quy mô quỹ bảo lãnh có thể tham chiếu trên tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Chẳng hạn đặt ra một mốc 10 – 20% so với tổng dư nợ tín dụng.
Ngoài ra, có thể áp dụng cơ chế yêu cầu các doanh nghiệp được bảo lãnh từ quỹ bảo lãnh tín dụng mà đạt được thành công thì đóng góp trở lại cho quỹ, chẳng hạn ở mức khoảng 10% lợi nhuận của doanh nghiệp ngoài thuế thu nhập doanh nghiệp. Phần nghĩa vụ này có thể hiểu như doanh nghiệp tư nhân hưởng lợi từ chính sách của Nhà nước, chia sẻ rủi ro với Nhà nước.
Đề xuất thứ sáu, ưu tiên lựa chọn nhà cung ứng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các gói mua sắm công, ít nhất là 100 tỷ đồng trở xuống để tạo cơ hội kinh doanh và tạo dòng tiền cho doanh nghiệp bằng nguồn vốn đầu tư công.
Cuối cùng, tôi mong muốn Đề án Phát triển kinh tế tư nhân có thể tạo thêm những cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, phát triển ngành công nghiệp tái chế để tiết kiệm tài nguyên, góp phần xử lý rác thải sau tiêu dùng, bảo vệ môi trường.
Xin cảm ơn ông!