Mẹ tôi năm nay 65 tuổi, mắc bệnh đái tháo đường đã 5 năm. Xin hỏi bác sĩ khi mắc bệnh này nhiều năm thì nguy cơ biến chứng sang những bệnh khác thế nào, có cách nào để ngăn ngừa các biến chứng không? (Hồng Sang, 41 tuổi, TP.HCM)
Trả lời
Đái tháo đường (tiểu đường) là bệnh mạn tính, không chỉ ảnh hưởng đến đường huyết mà còn âm thầm tác động đến nhiều cơ quan trong cơ thể, trong đó tim và mắt là hai cơ quan bị ảnh hưởng nhiều.
Điều đáng nói, các biến chứng này thường khởi phát lặng lẽ, chỉ bộc lộ khi đã gây tổn thương nghiêm trọng.
Kiểm soát tốt đường huyết là quan trọng, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Người bệnh cần được theo dõi toàn diện, tầm soát định kỳ và phối hợp điều trị đa chuyên khoa để bảo vệ trái tim và đôi mắt.
Trên thực tế, biến chứng tim mạch là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở người bệnh đái tháo đường, trong khi tổn thương võng mạc lại là nguyên nhân chính dẫn đến mù lòa.
Điều đáng lo ngại là cả hai biến chứng này thường khởi phát bằng những triệu chứng rất mờ nhạt, khiến người bệnh chủ quan và không phát hiện kịp thời.
Bên cạnh việc giữ đường huyết trong ngưỡng an toàn, việc kiểm soát huyết áp và mỡ máu đóng vai trò quyết định đến sự thành công của điều trị. Người bệnh có thể duy trì chỉ số đường huyết ổn định, nhưng nếu bỏ qua việc kiểm soát huyết áp và mỡ máu, nguy cơ nhồi máu cơ tim hay đột quỵ vẫn rất cao.
Bác sĩ thăm khám võng mạc cho bệnh nhân đái tháo đường. Ảnh: BVCC
Nếu biến chứng tim mạch là “kẻ thầm lặng” đe dọa tính mạng, thì biến chứng võng mạc lại âm thầm cướp đi ánh sáng của người bệnh.
Võng mạc đái tháo đường có thể tiến triển trong nhiều năm mà không gây triệu chứng rõ ràng. Khi người bệnh bắt đầu mờ mắt, nhìn méo hình hoặc thấy đốm đen trôi nổi, thường là đã bước vào giai đoạn nặng.
Khi đó, dù điều trị bằng laser, tiêm thuốc nội nhãn hay phẫu thuật, kết quả cũng chỉ dừng ở mức hạn chế, khó có thể phục hồi thị lực.
Thống kê cho thấy sau 10 năm mắc bệnh, khoảng 40% người đái tháo đường type 2 và 60% người type 1 có tổn thương võng mạc, trong đó 2% tiến triển đến giai đoạn tăng sinh - mức độ nặng nhất và dễ dẫn đến mù lòa.
Vì vậy, người bệnh không nên chờ đến khi mờ mắt mới đi khám, bởi khi đó cơ hội giữ lại ánh sáng đã rất mong manh.
Để phòng ngừa, người bệnh đái tháo đường cần được tầm soát mắt định kỳ bằng phương pháp chụp đáy mắt. Với người mắc đái tháo đường type 2, nên kiểm tra ngay sau khi được chẩn đoán; còn ở type 1 nên bắt đầu sau 5 năm kể từ khi phát hiện bệnh. Sau đó, cả 2 nhóm đều cần duy trì kiểm tra hằng năm để phát hiện sớm tổn thương và can thiệp kịp thời.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh việc kiểm soát đồng thời đường huyết, huyết áp và mỡ máu giúp làm chậm tiến triển bệnh lý võng mạc. Đặc biệt, một số thuốc có hoạt chất Fenofibrate đã cho thấy hiệu quả trong phòng ngừa tổn thương võng mạc, nhưng chỉ phát huy tác dụng khi bệnh được phát hiện sớm và người bệnh tuân thủ điều trị nghiêm ngặt.
Tóm lại, điều trị đái tháo đường là quá trình quản lý toàn diện, bao gồm chế độ ăn uống hợp lý, vận động thường xuyên, kiểm soát cân nặng, tuân thủ thuốc và tầm soát định kỳ.
BS CKII Nguyễn Thành Luân, khoa Mắt Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM
THẢO PHƯƠNG (Ghi)