Bình minh mang màu ký ức

Bình minh mang màu ký ức
2 giờ trướcBài gốc
Minh họa của NGUYỄN MINH
Tôi trở lại Điện Biên cùng đồng đội vào năm 1958. Năm 1954 giải phóng Điện Biên chúng tôi không khóc, giờ quay trở lại thì khóc, khóc vì thương đồng đội. Vừa thu dọn chiến trường, vừa khóc. Rồi chúng tôi tỏa ra khắp lòng chảo, bắt đầu công cuộc khai hoang. Những ngày đầu mới lên, anh em phải vào rừng lấy gỗ về dựng nhà, dựng lán. Lán chúng tôi gần bờ sông, cạnh sân bay Hồng Cúm cũ. Nơi ấy, đất mềm và nước trong, người Thái bảo trồng gì cũng tốt. Những ngày đầu khó khăn, ngô bung và rau dưa tạm bợ.
Tôi có nhiệm vụ xuống bản, làm công tác dân vận. Xuống bản giúp dân, có khó khăn gì nhờ người dân giúp đỡ. Hôm ấy, tôi ngồi nghỉ bên gốc cây, tay lau mồ hôi thì thấy Thanh. Cô gánh nước từ sông về bản. Cái bóng nhỏ nhắn của cô lướt qua triền ruộng. Mái tóc xõa xuống, chiếc áo cóm cũ. Tôi đứng dậy hỏi thăm.
“Không thấy hổ đâu chứ?”.
“Không. Nhưng mấy con lợn vẫn sợ”.
“Cô còn sợ chúng tôi không?”.
“Chỉ là chưa quen. Trước kia, người lạ về bản bắt người đi”.
“Mường Thanh hết chiến tranh rồi!”.
“Bố tôi khen các anh giỏi”.
Mấy hôm trước, ông Pánh đến lán chúng tôi. Ông vẫn vậy, nghiêm nghị. Ông vác cây dao phát dài trên vai, nhìn đống thóc giống đang ủ góc lán. Ông hỏi, các anh trồng lúa ở đây thật à? Chúng tôi cười, gật đầu vui vẻ. Chúng tôi ai cũng ngại ông, vì ông hay phản đối. Đã phản đối là phải nói to, gắt gỏng. Hồi thực dân Pháp chiếm lòng chảo, chúng lập trại tập trung Noong Nhai, hàng trăm người dân ở đó bị giết hại. Gia đình ông, chỉ còn ông và Thanh là may mắn sống sót. Những đau thương, sợ hãi, hoài nghi vẫn hiện lên trên gương mặt gầy, khắc khổ. Ông ngó nghiêng, nhìn tôi rồi bảo, hôm trước tôi thấy các anh qua sông cho thuốc bà cụ trong bản, cụ ấy gửi lời cảm ơn.
Tôi nhìn Thanh bảo.
“Thanh cũng giỏi, giờ Thanh nói giỏi tiếng Kinh rồi”.
Thanh nói một tràng tiếng Thái, tôi lắc đầu cười. Cô bảo:
“Anh học tiếng Thái, còn làm rể người Thái”.
Hôm sau, Thanh xuống chỗ chúng tôi. Cô gùi sau lưng bó măng, mồ hôi lấm tấm trên trán. Cô đặt bó măng xuống cạnh lán, giúi vào tay tôi gói hạt thóc nếp. Xôi của người Thái rất thơm, tôi từng mấy lần xin giống lúa nhưng bố Thanh không cho. Lần sau nữa xuống chơi cô mang theo mấy cây chuối con.
“Trồng đi, năm sau có quả ăn”.
“Bố em cho bọn anh à?”.
“Nhà có nhiều, em đào bớt đi”.
“Bố em không cho, bọn anh không dám nhận”.
“Em cho không được sao?”.
“Em không sợ bố em à?”.
“Bố không mắng con gái”.
Tôi nhìn Thanh cười. Những lúc gặp nhau, cô không nói nhiều, tôi cũng kiệm lời. Nhiều năm chinh chiến, bom đạn, chỉ cần ánh mắt dịu dàng của một cô gái nào đó thôi, cũng đủ hạ gục đám lính chúng tôi rồi.
Tôi nhớ cái mùi đất mới, ngai ngái mồ hôi, trộn với khói đốt nương. Những bàn tay từng siết cò súng nay cầm cán cuốc, cán liềm. Ban ngày, chúng tôi phát nương, chặt cây, cuốc đất khai hoang. Ban đêm, đội chia người đi làm dân vận, cảnh giới, bởi thổ phỉ thường hoạt động về đêm. Chúng ẩn nấp trong rừng, giả làm dân bản, đêm đến lẻn vào lán bộ đội, lấy gạo, cắt dây phơi lấy quần áo, thậm chí lấy cả cuốc xẻng đem đi. Có đêm, chúng nổ súng từ xa rồi chạy, khiến anh em tưởng có phục kích. Cả đội bị dựng dậy giữa đêm, lao ra đồng, chỉ thấy con bù nhìn cháy, áo bù nhìn dính máu. Có lần, Tâm bị thương nhẹ ở vai khi đuổi theo một tên phỉ lẻn vào bản. Hắn ăn mặc như dân bản nhưng giấu dao trong tay áo. May mà Tâm nhanh tay đỡ được nhát chém và làm hắn bị thương. Dân bản bảo, làm nó bị thương mà không bắt được nó, nó sẽ tìm cách trả thù. Sau vụ đó Tâm được anh em quan tâm, để ý không cho xuống bản.
Tối hôm ấy, bầu trời ngùn ngụt mây. Những đám mây xám dày, xoắn lại, gió giận dữ quyện theo hơi nước. Đội trưởng Bương mắt không rời phương trời mây đen, bảo:
“Có mùi bão, không chỉ là mưa bình thường”.
Đến nửa đêm, mưa đổ xuống quật vào đất, từng trận, từng trận. Gió rít qua khe lán, làm tấm bạt che cửa giật tung. Tôi cùng đồng đội lao ra ngoài. Sông Nậm Rốm cuồn cuộn như thú hoang tỉnh giấc. Mặt nước không còn phân biệt được đâu là bờ, đâu là ruộng, tất cả chỉ còn dòng nước đục ngầu, chảy xiết, cuồn cuộn, cuốn đi mọi thứ. Những mảnh ruộng mới cấy giờ ào ào nước, loang loáng lúa non trôi nổi. Anh em lao ra vớt lúa. Anh Bương hét, lên bờ không bị cuốn đi, nhưng anh em không ai nghe thấy, chỉ biết là phải vớt, vớt được chút nào hay chút đấy. Phải mãi tới chiều hôm sau, mưa mới ngớt và nước bắt đầu rút. Một thung lũng ướt lạnh, lấm lem bùn đất. Đồng Mường Thanh như bãi chiến trường, tan hoang. Tôi cúi xuống, nhặt lúa non dính bết bùn. Chúng tôi đứng nhìn công sức của anh em bao lâu nay bị vùi ngập trong bùn.
Đêm ấy, trong khi lán trên còn đang đốt lửa hong quần áo, chăn màn ướt vì bão thì lán dưới bị tập kích. Tiếng súng nổ. Tiếng la hét, tiếng chân chạy đạp bùn, tiếng ai đó gào lên thất thanh.
“Thổ phỉ!”.
Tôi lao tới thì thấy mấy bóng đen kéo Tâm về phía đồng. Tôi đuổi theo, thêm tiếng súng kíp nổ, tôi cúi người tránh thì bị trượt ngã, bùn đất ngập người. Đồng đội chạy tới, đuổi theo nhưng không kịp. Anh Bương gào lên như điên, kêu gọi anh em chuẩn bị tiễu phỉ. Ngay sáng hôm sau, một đội tiễu phỉ được thành lập gồm mười đồng chí. Ông Pánh xung phong dẫn đường. Chúng tôi đi đường Sam Mứn, dọc theo bờ sông Nậm Núa ngược lên. Trời vẫn mưa, nước sông dâng cao. Lối mòn hẹp, cây rậm rạp. Sông Nậm Núa cuộn chảy, hun hút như muốn cuốn lấy người. Ông Pánh bảo.
“Hồi còn Tây, bọn phỉ núp ở cái hang trong rừng, giờ chắc vẫn còn đó”.
Đến chiều tối chúng tôi mới tới nơi, nghe tiếng động lạ đâu đó gần đây. Anh em nhanh chóng phát hiện một toán phỉ đang nghỉ chân. Không bàn bạc, anh em cùng đội hiểu ý nhau, quen tác chiến, đội trưởng Bương hô lớn:
“Lao lên!”.
Đám phỉ chỉ có vài khẩu súng kíp, còn lại là dao quắm có cán dài. Trận đánh diễn ra trong mưa rừng già. Tiếng đạn, tiếng dao, tiếng người la hét xen lẫn tiếng vượn hú, tiếng mưa xối xả. Tôi thấy Tâm bị trói vào gốc cây, bị thương ở vai, mặt chảy máu. Tôi lao tới, chém đứt dây trói. Một tên phỉ xông vào, vung dao, tôi nghiêng mình né dao trượt qua. Tôi xoay người, giáng báng súng vào sườn hắn. Rồi tôi bị ai đó đánh từ sau lưng, ngã xuống dốc. Không nhớ rõ chuyện gì xảy ra tiếp, chỉ biết là tôi bị ngã. Đá sắc cào rách lưng, cành cây quật vào mặt. Tôi nghe thấy tiếng Tâm gọi. Tôi lăn nhiều vòng như hòn đá tuột khỏi vách núi cho tới khi rơi xuống suối. Nước suối chảy xiết, toàn bùn đất, cuốn tôi đi. Nước bùn xộc vào họng, vào mũi, cành cây đập vào đầu. Mọi thứ tối sầm lại. Tôi bị cuốn đi.
Tôi tỉnh dậy, đầu nhức, người ướt. Mùi bùn đất, tôi nôn ra bùn, ồng ộc. Tôi thấy Thanh. Mắt cô đỏ hoe.
“Anh còn sống là tốt rồi…”.
Thanh cúi xuống, giọt nước mắt rơi xuống má tôi, ấm nóng.
Sáng ấy, trời vừa hửng nắng sau nhiều ngày mưa. Sương đọng trên lúa non, lấp lánh. Tôi đang ngồi bên bờ ruộng, tay run nhẹ vì còn yếu, nhìn anh em lội bùn cấy lại từng cây mạ con. Ông Pánh từ đầu bờ ruộng bước xuống. Bộ áo chàm cũ, bạc màu nắng gió. Ông ngồi thụp xuống ruộng, nơi đám lúa tan hoang sau lũ vừa được dặm cấy lại. Bàn tay chai sạn của ông bốc nắm bùn, vò nát trong lòng bàn tay. Ánh mắt ông nhìn về phía khu ruộng tan hoang, bảo:
“Ruộng nhà tôi trên cao, không bị ngập. Các cậu lên tỉa, đem mạ về mà cấy”.
Tưởng đâu chỉ mình tôi nghe thấy, hóa ra mấy anh em ở gần đó cũng lắng tai. Nghe xong, chẳng ai bảo ai, cả đám vùng lên, hò reo như trẻ con được quà. Mấy đứa lội bùn chạy lại, nhào tới ôm chầm lấy ông:
“Bố! Chúng con cảm ơn bố”.
Ông Pánh giãy nảy, lúng túng như bị đánh úp:
“Ơ, cái gì đấy!”.
“Hoan hô bố! Bố vợ!”.
“Các anh làm gì vậy? Không được ôm tôi!”.
“Bố! Bố!”.
“Toàn bùn, bẩn hết người tôi rồi!”.
Nhưng anh em đã ầm ầm vây lấy ông, người khiêng vai, kẻ nhấc chân. Tiếng cười, tiếng lội bùn bì bõm vang khắp ruộng. Mấy đứa con gái bản nghe thấy ồn ào cũng quay sang hóng, vừa cười vừa vỗ tay. Ông Pánh bị khiêng về, gắt gỏng, mắng om sòm.
Gạo đầu mùa trắng, thơm dẻo, bùi ngậy. Bữa cơm mừng lúa mới được làm ở khu lán. Anh em bộ đội và dân bản ngồi lẫn vào nhau. Dân bản mang đến xôi, cá suối nướng, rượu cần. Anh em nông trường mặc quần áo sạch, mặt ai cũng ánh lên niềm vui của một vụ mùa trọn vẹn. Bữa cơm tràn ngập niềm vui, tiếng cười đùa. Tôi bưng bát rượu sang mời ông Pánh, Ông đặt trước tôi gùi thóc đã tuốt, chỉ tay bảo:
“Lúa này ruộng nhà tôi. Anh cùng con gái tôi cấy thì về nhà tôi giã. Từ mai, anh sang nhà tôi ở rể. Ở rể là phải dậy trước gà, chẻ củi, gánh nước”.
Mọi người cười ồ lên, vỗ tay hoan hô. Mấy anh em thân thiết chạy tới chúc mừng. Tôi chưa kịp phản ứng thì anh Bương từ phía sau bảo:
“Bố, nó không chịu ở rể thì bọn con ở”.
“Cả con nữa bố, con giã gạo giỏi hơn thằng này!”.
“Con giỏi võ hơn nó, nó á, con bắt nạt thường xuyên”.
Mọi người cười vui vẻ. Ông Pánh cũng cười, bảo.
“Các anh giỏi, nhưng không anh nào chịu chọc sàn nhà con gái tôi. Nào, anh có đồng ý ở rể không, tôi còn tuyển rể khác”.
Tôi quay nhìn Thanh, mắt cô lấp lánh. Tôi cúi xuống ôm gùi thóc. Mọi người đứng dậy vỗ tay ào ào. Thanh được mọi người đẩy sang, đứng cạnh tôi từ lúc nào. Thanh quàng chiếc khăn piêu vào cổ tôi.
Nắng đã lên cao, thành phố ồn ào hơn. Không còn mùi khói súng, không còn khai hoang, không lo cơm từng bữa. Dòng Nậm Rốm vẫn chảy, nhưng chẳng mấy ai nhớ nó từng cuốn đi lúa non, mùa màng. Đồng Mường Thanh giờ mênh mang lúa, nhưng mấy người nhớ nơi này từng là bãi chiến trường, bãi hoang. Làm nhân chứng cho những điều đang mờ, mất đi không lấy gì làm vui. Tôi vừa muốn kể lại, vừa muốn im lặng. Tôi nhớ Thanh, nhớ anh Bương, ông Pánh, Tâm… những người đã khuất. Rồi một ngày, tôi cũng như họ.
Chỉ bình minh trên đồng Mường Thanh là còn mãi.
■ Truyện ngắn của HIẾU TRUNG LONG
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/binh-minh-mang-mau-ky-uc-post902696.html