BMW - cái tên được người ta nhắc đến với một đẳng cấp cao đầy ngưỡng mộ dành cho thương hiệu ô tô nổi tiếng thế giới - phải trải qua một hành trình dài với cả những thành công và thất bại.
BMW - cái tên được người ta nhắc đến với một đẳng cấp cao đầy ngưỡng mộ dành cho thương hiệu ô tô nổi tiếng thế giới - phải trải qua một hành trình dài với cả những thành công và thất bại.
Trải qua thời gian 100 năm hình thành và phát triển, BMW hiện nay là một trong những hãng xe hạng sang lớn nhất thế giới. Mỗi chiếc BMW ra đời đều được xem là một thành tựu công nghệ của nhân loại.
Kể từ năm 1927, khi ra mắt mẫu xe đầu tiên - chiếc sedan 3/15 - BMW đã tiếp tục sản xuất hàng trăm biến thể. Vì vậy, việc chọn ra các mẫu xe độc đáo là một nhiệm vụ khá khó khăn nhưng dưới đây là 10 mẫu xe mang tính biểu tượng và có ảnh hưởng nhất của BMW từng được xuất xưởng và lăn bánh trên đường phố.
Ban đầu được sản xuất bởi công ty Iso SpA của Italia, cái tên Isetta có nghĩa là "Iso nhỏ".
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu của thị trường châu Âu đối với những chiếc xe nhỏ, rẻ tiền đã thôi thúc kỹ sư kiêm doanh nhân Renzo Rivolta tạo ra một chiếc xe ô tô đáp ứng được những yêu cầu này.
Theo đó, những mẫu ô tô siêu nhỏ Isetta được ra đời và người ta ví nó giống một chiếc “tủ lạnh”. Điều này là do cánh cửa xe được mở ra hệt như cách mở tủ lạnh và chính từ đó trở thành một đặc điểm biểu tượng của microcar.
Isetta đã gây ra một sự chấn động khi mẫu xe được giới thiệu với giới truyền thông ở Turin vào tháng 11/1953, bởi nó là một chiếc ô tô không giống với bất cứ thứ gì người ta từng thấy trước đây: Nhỏ (chỉ dài 2,29m, rộng 1,37m), Mẫu xe có hình quả trứng, có cửa sổ kiểu bong bóng, toàn bộ phần đầu xe được xoay ra ngoài để cho phép người ra vào.
Chỗ ngồi cung cấp sự thoải mái hợp lý cho 2 người ngồi và có lẽ là còn chứa thêm được một trẻ nhỏ. Phía sau yên xe là cốp đựng đồ lớn với bánh xe dự phòng nằm bên dưới.
Sức mạnh của mẫu xe siêu nhỏ này đến từ động cơ xe máy 2 kỳ chia đôi 236cc (14,4 cu in), 7,1kW (9,5 mã lực). Động cơ được khởi động bằng bộ máy phát điện kết hợp có tên là Dynastart.
Các nguyên mẫu đầu tiên có 1 bánh ở phía sau nhưng khiến chiếc xe dễ bị lật, do đó nó đã được thay đổi thành 2 bánh sau đặt cách nhau 480mm. Isetta mất hơn 30 giây để đạt vận tốc 50km/h, tốc độ tối đa chỉ khoảng 75km/h. Bình xăng chỉ chứa 13 lít và tiêu thụ khoảng 5,6l/100km.
BMW bắt đầu nói chuyện với Rivolta vào giữa năm 1954 và mua không chỉ giấy phép mà còn cả bộ công cụ thân xe Isetta hoàn chỉnh. Rivolta cũng đã đàm phán các hợp đồng cấp phép với các công ty ở Pháp và Brazil. Cuối cùng, BMW đã sản xuất Isetta của riêng mình. Họ đã thiết kế lại hệ thống động cơ xung quanh động cơ xe máy BMW 1 xi-lanh, 4 kỳ, 247cc, tạo ra công suất 9kW (12 mã lực).
Mẫu BMW Isetta đầu tiên xuất hiện vào tháng 4/1955. Vào tháng 5/1962, 3năm sau khi tung ra mẫu BMW 700 với kiểu dáng hiện đại thông thường, BMW đã ngừng sản xuất Isettas. Tổng cộng 161.728 chiếc đã được sản xuất trong khoảng thời gian 7 năm.
Mẫu xe có thể là “một vị cứu tinh” không thể ngờ tới nhưng BMW sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay nếu không có Isetta.
E9 là một dòng xe coupé do hãng xe Đức BMW sản xuất từ năm 1968 - 1975. Ban đầu, được phát hành dưới dạng mẫu 2800 CS, E9 dựa trên mẫu xe coupé 4 xi-lanh BMW 2000 C/2000 CS, được mở rộng để phù hợp với động cơ 6 xi-lanh BMW M30. Thân xe E9 được chế tạo bởi Karmann.
Được giới thiệu vào tháng 5/1972, 3.0 CSL là phiên bản đặc biệt được cấp phép để mẫu xe đủ điều kiện tham gia Giải đua xe du lịch châu Âu. 1.265 chiếc đã được chế tạo, "L" trong tên gọi có nghĩa là leicht (nhẹ), không giống như các tên gọi khác của BMW, khi nó có nghĩa là "lang" (dài).
Ban đầu, sử dụng cùng một động cơ như 3.0 CS, 3.0 CSL đã được tăng dung tích xi lanh rất nhỏ lên 3.003cc (183,3 cu in) bằng cách tăng đường kính lỗ khoan động cơ thêm một phần tư milimét lên 89,25mm. Điều này được thực hiện vào tháng 8/1972 để cho phép CSL được đua trong hạng mục "trên ba lít", cho phép tăng dung tích xi lanh ở những mẫu xe đua.
Chỉ có 500 chiếc CSL cấu hình ở chế độ lái tay phải được nhà máy hoàn thiện vào tháng 12/1972. Được trang bị hệ thống phun nhiên liệu Bosch D-Jetronic mạnh mẽ, động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng tạo ra công suất 200 PS.
BMW đã đưa CSL trở lại vào năm 2023 như một món quà kỷ niệm 50 năm cho bộ phận M.
Được coi rộng rãi là tiền thân của M2, BMW 2002 chưa bao giờ được lên kế hoạch tồn tại. Trong những gì có thể được mô tả là hoàn toàn ngẫu nhiên, giám đốc lập kế hoạch sản phẩm của BMW và kỹ sư trưởng về động cơ M10 đều lắp động cơ 2.0 lít vào BMW 1600-2 cá nhân của họ.
Khi biết được điều này và mong muốn có một series 02 thể thao hơn cho thị trường Mỹ, BMW đã phát triển 2002 và ra mắt Turbo 2002 - chiếc xe sản xuất tăng áp đầu tiên của BMW - vào năm 1973.
Động cơ 2.0 lít của nó phát triển công suất 170 mã lực và mô-men xoắn 180 lb-ft. Đáng buồn thay, cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 xảy ra ngay sau đó và chỉ có 1.672 chiếc xe được xuất xưởng.
Dù sao mẫu xe cũng được biết đến với thiết kế thể thao, hiệu năng vượt trội và sự độc đáo trong lịch sử BMW.
Vào cuối những năm 1970, nhà sản xuất ô tô Italia Lamborghini đã ký một thỏa thuận với BMW nhằm cho ra mắt một chiếc xe đua nhưng xung đột đã nảy sinh khiến BMW phải tự sản xuất. Mẫu xe thành phẩm đã được bán cho công chúng từ năm 1978 - 1981 với tên gọi BMW M1.
M1 là mẫu xe đầu tiên được phát triển độc quyền bởi BMW M, sử dụng động cơ xăng M88/1 3.453cc (3,5 L) 6 xi-lanh thẳng hàng với hệ thống phun nhiên liệu cơ học Kugelfischer - Bosch và hệ thống đánh lửa Magneti-Marelli. Động cơ được phát triển bởi Paul Rosche, người cũng chịu trách nhiệm cho động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng S14 và động cơ V12 S70/2.
Một phiên bản của động cơ này sau đó đã được sử dụng trong phiên bản 745i của Nam Phi trong đó có 209 chiếc được chế tạo từ năm 1984 - 1986, cũng như E24 M6/M635CSi và E28 M5. Động cơ có 6 bướm ga riêng biệt, trục cam đôi, 4 van trên mỗi xi-lanh và tạo công suất đầu ra là 277 PS (204kW; 273 mã lực) tại 6.500 vòng/phút, mô-men xoắn 330N⋅m (243 lbf⋅ft) tại 5.000 vòng/phút ở phiên bản đường trường, giúp xe đạt tốc độ tối đa 265km/h.
Động cơ được kết hợp với hộp số sàn 5 cấp do ZF Friedrichshafen sản xuất được trang bị bộ vi sai chống trượt giới hạn khóa 40%. Chỉ có 453 chiếc được xuất xưởng khiến M1 trở thành một trong những chiếc BMW hiếm nhất từng được sản xuất.
Z1 là mẫu xe đầu tiên trong dòng xe mui trần 2 chỗ Z series của BMW và được sản xuất với số lượng hạn chế từ năm 1989 - 1991. Chữ "Z" trong Z1 ban đầu là viết tắt của Zukunft có nghĩa là tương lai. Những mẫu xe sau này trong dòng Z là Z3, Z4 và Z8, tất cả đều có sẵn dưới dạng xe mui trần 2 chỗ.
Cửa xe rất độc đáo ở chỗ chúng có thể thu vào theo chiều dọc thay vì các thiết kế truyền thống là mở ra ngoài hoặc lên trên. Ngoài thiết kế cửa độc đáo, thân xe Z1 còn có một số cải tiến khác: tấm thân xe bằng nhựa có thể tháo rời, một khay dưới phẳng, một vành cuộn tích hợp vào viền kính chắn gió và các đường nối được hàn kẽm liên tục.
Cấu hình hệ thống truyền động duy nhất là động cơ M20 thẳng hàng 6 xi-lanh 2,5 lít và hộp số sàn Getrag 260/5 năm cấp, có nguồn gốc từ E30 325i. Động cơ SOHC 2.494cc (152 cu in), sản sinh công suất 125kW (168 mã lực) tại 5.800 vòng/phút và mô-men xoắn 222N⋅m (164 lb⋅ft).
Động cơ được lắp phía sau trục trước để phân bổ trọng lượng tốt hơn và được đặt nghiêng 20 độ sang bên phải để phù hợp với đường viền mui xe thấp. Hệ thống treo sau, được gọi là trục Z, được thiết kế đặc biệt cho Z1
Đây là một trong những mẫu BMW đầu tiên có thiết kế đa liên kết. Vào những năm 1990, trục Z đã được sử dụng trên nhiều loại xe của Tập đoàn BMW bao gồm E36 3 Series và R40 Rover 75.
Z1 có 6 màu ngoại thất và 4 màu nội thất trong đó, đỏ là màu ngoại thất phổ biến nhất.
E39 là thế hệ thứ 4 của dòng BMW 5 Series dành cho giám đốc điều hành, được sản xuất từ năm 1995 - 2004.
E39 là một trong những xe đầu tiên (cùng với E38 7 Series ) có túi khí rèm, giúp bảo vệ đầu của người ngồi trong xe khi va chạm bên hông. Trang bị tiêu chuẩn trên các mẫu xe ra mắt bao gồm túi khí kép phía trước, bên hông, bộ căng đai trước, bộ giới hạn tải cho dây an toàn phía trước, phanh chống bó cứng, kiểm soát lực kéo, trợ lực lái và điều hòa không khí.
Hệ thống dẫn đường vệ tinh cũng khả dụng, ban đầu sử dụng bản đồ trên CD-ROM sau đó chuyển sang bản đồ DVD vào năm 2002. Khi ra mắt, động cơ xăng bao gồm động cơ BMW M52 thẳng hàng 6 xi-lanh và động cơ BMW M62 V8.
Vào cuối năm 1998, phiên bản "cập nhật kỹ thuật" của những động cơ này đã được giới thiệu cho M52 và M62, chủ yếu là để tăng mô-men xoắn ở vòng tua thấp. Bước nhảy vọt về hiệu suất được đặc trưng bởi thời gian tăng tốc từ 0 - 100km/h là 5 giây và tốc độ tối đa giới hạn là gần 250km/h. Tuy nhiên, khi không bị hạn chế, E39 M5 có thể đạt tốc độ tối đa gần 300km/h.
Đây là mẫu xe thực sự nhẹ (sau đó chúng trở nên to hơn, nặng hơn và kém linh hoạt hơn) đó là lý do tại sao E39 M5 được coi là một trong những chiếc BMW tuyệt vời nhất đối với người đam mê cầm lái.
Là một phiên bản đua của BMW M3 E46, được BMW M Motorsport phát triển để tham gia giải American Le Mans Series (ALMS) và các giải đua thể thao khác.
Phiên bản GTR có động cơ V8 4.0L, tương tự như động cơ V8 trong phiên bản đua, nhưng đã được điều chỉnh để đáp ứng các quy định về tiếng ồn và khí thải cho phép chạy trên đường phố. Mẫu xe được ra mắt với số lượng chỉ có 10 chiếc và chủ yếu được sử dụng để chứng nhận động cơ V8 mới (P60B40).
Động cơ nhỏ gọn siêu nhẹ được làm hoàn toàn bằng nhôm này được tăng tốc lên 380 mã lực tại 7.000 vòng/phút ở phiên bản xe đua. Và hộp số sàn 6 cấp cũng được lắp đặt thay vì hộp số SMG II.
Ngoại thất của xe không hề đơn giản và dễ nhận biết với cánh gió sau lớn, nắp ca-pô động cơ có thêm các lỗ thông gió, phần cản trước và sau mở rộng. Tốc độ tối đa của mẫu xe đạt tới 250km/h (giới hạn điện tử) và 280km/h (không giới hạn)
Được điều chỉnh để trở nên cực kỳ thể thao đã biến BMW M3 GTR trở thành một mẫu xe hiệu suất cao thuần chủng.
Dựa trên Z3 Coupe, BMW M Coupe là một dự án skunkworks được phát triển bí mật vì nhóm phát triển đã gặp khó khăn trong việc thuyết phục ban giám đốc rằng một mô hình sản xuất sẽ khả thi.
Họ đã xoay xở để có được sự chấp thuận với điều kiện là họ phải giữ chi phí ở mức thấp, đó là lý do tại sao nó vẫn giữ lại rất nhiều bộ phận thân xe Z3. Các mẫu xe tại Mỹ được trang bị động cơ S52 dung tích 3,2 lít và sản sinh công suất 240 mã lực và mô men xoắn 236 lb-ft.
Vào năm 2001, mẫu xe toàn cầu đã được cải tiến để có động cơ S54 sản sinh công suất 315 mã lực và mô men xoắn 251 lb-ft theo thông số kỹ thuật của Bắc Mỹ.
Trong thập kỷ rưỡi qua, đã có rất nhiều mẫu xe BMW với huy hiệu M được gắn nhưng chiếc coupe 1M thực sự là một mẫu xe đặc biệt.
Do siêu xe M1, 1M Coupe không thể theo cách đặt tên truyền thống cho xe M. Dựa trên E87 1 Series Coupe, 1M Coupe có phiên bản nâng cấp của động cơ 6 xi-lanh tăng áp kép N54.
Vì N54 không được BMW M tinh chỉnh, nhiều người coi 1M không phải là một chiếc xe M thực thụ. Nhưng khung gầm nhanh nhẹn của chiếc coupe nhỏ gọn đã đảm bảo rằng những người sở hữu chúng không quan tâm đến tên gọi động cơ không phải S.
Đây là dòng coupe 2 cửa, được lấy cảm hứng từ E92 M3 với lưới tản nhiệt hình quả thận và đèn vòng đôi đặc trưng của BMW. Động cơ I6 3.0 lít tăng áp kép N54, công suất 335 mã lực và mô-men xoắn 332 lb-ft (450 Nm) cùng hộp số sàn 6 cấp khiến cho mẫu xe đạt tốc độ từ 0 - 100km/h chỉ trong 4.7 giây và tốc độ tối đa 250 km/h.
Chiếc BMW động cơ đặt giữa thứ 2, i8 là sự thất vọng đối với một số người nhưng lại là sự khám phá đối với những người khác.
Chiếc xe thể thao hybrid này có động cơ tăng áp 3 xi-lanh 1,5 lít đặt giữa kết hợp với động cơ đồng bộ hybrid cho công suất kết hợp là 357 mã lực và mô-men xoắn 420 lb-ft dẫn động cả 4 bánh. Sử dụng khung gầm sợi carbon nhẹ, i8 chỉ nặng 1.465kg và do đó có thông số hiệu suất ấn tượng với khả năng tăng tốc từ 0 - 96km/h chỉ trong 4,2 giây.
Mẫu xe sử dụng cùng một công thức cơ bản như Holy Trinity nhưng với mức giá hợp lý hơn. Chiếc M5 mới nhất của BMW là xe hybrid cắm điện, cũng giống như chiếc xe nổi tiếng hiện tại của hãng, chiếc XM gây tranh cãi.
Về cơ bản, i8 đã chứng minh rằng việc bổ sung điện vào hỗn hợp không phải là một ý tưởng tồi và có lẽ nó sẽ thành công hơn nếu được ra mắt ngày hôm nay thay vì 10 năm trước.
Nam Anh