Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân có nhiều tư tưởng đột phá. Ảnh: Hoàng Anh.
Thay đổi mạnh mẽ trong tư duy, nhận thức về kinh tế tư nhân
Theo Nghị quyết 68-NQ/TW vừa được Tổng Bí thư Tô Lâm vừa thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành, Chính phủ xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Khu vực này hiện có khoảng 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và sử dụng hơn 80% lực lượng lao động.
Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh để trở thành lực lượng nòng cốt của nền kinh tế. Đa số doanh nghiệp tư nhân vẫn ở quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, với tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, dẫn đến năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế này được Nghị quyết 68 chỉ ra là do tư duy, nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân chưa đầy đủ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Thể chế, pháp luật còn nhiều vướng mắc, bất cập, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. Doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực quan trọng như vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, khó tiếp cận, trong khi chi phí kinh doanh còn cao.
Trước bối cảnh đó, việc đổi mới tư duy và có những giải pháp đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân là yêu cầu cấp bách. Nghị quyết 68 đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo cốt lõi, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân.
Thứ nhất, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cấu trúc nền kinh tế. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập quốc tế hiệu quả.
Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả và chất lượng cao là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa mang tính chiến lược, cần được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển quốc gia nhằm giải phóng mọi tiềm năng, nguồn lực cho phát triển.
Thứ ba, xóa bỏ triệt để mọi định kiến về kinh tế tư nhân, đánh giá đúng vai trò quan trọng của khu vực này, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo, bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực tư nhân.
Đồng thời, quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, doanh nhân phải được bảo vệ, kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực.
Thứ tư, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách đột phá cần sớm hoàn thiện để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong các lĩnh vực ưu tiên, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thúc đẩy khởi nghiệp và làm giàu chính đáng.
Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, bản lĩnh, trí tuệ; tôn vinh, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật và trách nhiệm xã hội.
Nghị quyết đặt ra những mục tiêu cụ thể và đầy tham vọng cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, đạt tỷ lệ 20 doanh nghiệp/1.000 dân; ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10-12%/năm; đóng góp 55-58% GDP, 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước; giải quyết 84-85% tổng số việc làm.
Đến năm 2045, Việt Nam có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động, đóng góp trên 60% GDP, và có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.
Tám giải pháp đột phá giúp kinh tế tư nhân phát triển
Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Nghị quyết 68 đề ra tám nhóm nhiệm vụ và giải pháp giúp tháo gỡ các điểm nghẽn, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.
Một là, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, khởi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, Nhà nước kiến tạo, phục vụ, không can thiệp hành chính trái nguyên tắc thị trường. Quan hệ chính quyền - doanh nghiệp cần được xây dựng cởi mở, thân thiện, đồng hành, nghiêm cấm các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu, thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.
Hai là, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, đổi mới tư duy xây dựng và thực thi pháp luật theo cơ chế thị trường, giảm can thiệp hành chính, cơ chế “xin – cho”. Quyền tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật không cấm được đảm bảo.
Bên cạnh đó, nghị quyết yêu cầu hoàn thiện pháp luật, xóa bỏ rào cản tiếp cận thị trường, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, lâu dài, chi phí thấp cho doanh nghiệp phát triển.
Đáng chú ý, nghị quyết yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân. Các quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình cần được rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả, giảm thiểu rủi ro pháp lý.
Trách nhiệm hình sự và hành chính, dân sự, giữa pháp nhân và cá nhân trong xử lý vi phạm cũng được yêu cầu tuân thủ nguyên tắc phân định rõ ràng. Các quy định về pháp luật hình sự, dân sự, được yêu cầu sửa đổi để đảm bảo nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp dân sự, kinh tế, hành chính trước.
Các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Đặc biệt, không hồi tố các quy định pháp luật để gây bất lợi cho doanh nghiệp.
Ba là, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn lực đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao. Trong đó có cơ chế tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho kinh tế tư nhân; đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân.
Nghị quyết yêu cầu thực hiện hiệu quả các chương trình đào tạo, thực hiện đào tạo bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành, huy động các doanh nhân tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực hiệu quả cho đội ngũ doanh nghiệp tư nhân.
Bốn là, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Nghị quyết yêu cầu ban hành khung pháp lý thử nghiệm cho công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Cho phép tính chi phí R&D vào chi phí được trừ thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 200% chi phí thực tế.
Chi phí đầu tư công nghệ, chuyển đổi số, xanh được hỗ trợ qua khấu trừ thuế hoặc tài trợ. Nghị quyết cho phép doanh nghiệp trích tối đa 20% thu nhập tính thuế lập quỹ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cho phép doanh nghiệp sử dụng phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu của Nhà nước với phí hợp lý. Đồng thời, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia làm việc tại doanh nghiệp, trung tâm đổi mới sáng tạo.
Năm là, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp, xây dựng chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị, khuyến khích doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, hỗ trợ phát triển cụm liên kết ngành.
Việc doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là tiêu chí hưởng ưu đãi. Chi phí đào tạo của doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được trừ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nghị quyết yêu cầu việc kết nối giữa doanh nghiệp FDI và nội địa cần được đẩy mạnh, áp dụng tỷ lệ nội địa hóa phù hợp và yêu cầu dự án FDI lớn có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa của các doanh nghiệp trong nước.
Sáu là, hình thành và phát triển doanh nghiệp lớn, tập đoàn tư nhân tầm cỡ, mở rộng sự tham gia của tư nhân vào dự án quan trọng quốc gia. Nhà nước chủ động đặt hàng, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu hoặc ưu đãi cho tư nhân tham gia lĩnh vực chiến lược (đường sắt tốc độ cao, năng lượng, hạ tầng số, quốc phòng...).
Nghị quyết yêu cầu thúc đẩy tư nhân đầu tư vào y tế, giáo dục chất lượng cao, công nghiệp văn hóa, đa dạng hóa mô hình hợp tác công tư (PPP), triển khai chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiên phong về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp vươn ra quốc tế.
Bảy là, hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Theo đó, hệ thống pháp lý về kinh doanh cá thể cần được hoàn thiện, khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp. Chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm cho doanh nghiệp cần được đơn giản hóa.
Nhà nước cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, tư vấn pháp lý, đào tạo cho các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh, thực hiện chiến lược tài chính toàn diện, thúc đẩy tiếp cận tài chính cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên nhóm yếu thế.
Tám là, đề cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần doanh nhân. Theo đó, Việt Nam cần xây dựng được đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, trung thực, thanh liêm, trách nhiệm xã hội, gắn với bản sắc văn hóa dân tộc, mang trong mình khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng.
Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện để doanh nhân tham gia quản trị đất nước.
An Chi