Bỏ công chứng trong giao dịch đất đai: Nên hay không?

Bỏ công chứng trong giao dịch đất đai: Nên hay không?
5 giờ trướcBài gốc
Bộ Công an đang lấy ý kiến cho dự thảo Nghị quyết đề xuất bỏ công chứng và xác nhận tình trạng hôn nhân trong các giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phương tiện giao thông ở những trường hợp đã được số hóa và liên thông dữ liệu.
Đề xuất này được xem là bước tiến trong cải cách hành chính nhưng cũng mang tới nhiều băn khoăn về tính an toàn pháp lý. Nhiều người cho rằng việc triển khai cần có lộ trình phù hợp, cùng cơ chế kiểm soát rủi ro rõ ràng khi hệ thống dữ liệu quốc gia vẫn đang hoàn thiện.
Pháp Luật TP.HCM đã ghi nhận ý kiến của các luật sư, công chứng viên góp ý cho vấn đề này.
Bộ Công an đề xuất bỏ công chứng, xác nhận hôn nhân trong giao dịch đã số hóa nhận được nhiều ý kiến khác nhau. Ảnh: HOÀNG GIANG
Công chứng là “thẩm phán phòng ngừa”
Công chứng viên Lê Ngọc Tình, Phó Trưởng phòng Phòng Công chứng số 2 TP.HCM, thành viên Ban chuyên môn – Hội đồng Công chứng viên toàn quốc, cho rằng công chứng và xác nhận tình trạng hôn nhân là hai hoạt động khác nhau về bản chất pháp lý và giá trị đối với người dân.
Theo ông Tình, công chứng là dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, không phải là thủ tục hành chính. Kết quả của công chứng là văn bản có hiệu lực pháp lý, là căn cứ để thi hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch, đồng thời là chứng cứ không cần phải chứng minh trước Tòa án và Trọng tài khi phát sinh tranh chấp.
“Công chứng viên không làm chậm quá trình giao dịch, mà chính là người bảo đảm cho giao dịch đó được diễn ra an toàn, nhanh chóng và đúng pháp luật" - ông Tình nói.
Trong khi đó, xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ là một thủ tục hành chính, đơn thuần dựa vào dữ liệu hộ tịch do cơ quan quản lý cung cấp. Nếu cơ quan, tổ chức có thể tra cứu trực tiếp qua Cơ sở dữ liệu hộ tịch hoặc VNeID, thì việc bỏ thủ tục xác nhận này là phù hợp và kịp thời, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm phiền hà cho người dân mà vẫn bảo đảm tính xác thực pháp lý.
Từ đó, ông Tình cho rằng việc bỏ thủ tục công chứng là không phù hợp và tiềm ẩn nhiều hệ quả pháp lý phức tạp. Bởi lẽ, công chứng viên không chỉ xác thực giấy tờ, tài sản mà còn đánh giá ý chí tự nguyện, năng lực hành vi dân sự, động cơ và mục đích thực sự của các bên trong giao dịch - điều mà dữ liệu số hay hệ thống máy móc không thể làm được.
“Trong thực tế, có nhiều trường hợp người dân đến công chứng hợp đồng ‘tặng cho’ nhưng qua quá trình trao đổi, công chứng viên phát hiện bản chất thật là lập di chúc. Nếu không có bước kiểm tra, tư vấn này thì rất dễ xảy ra tranh chấp sau này" - ông Tình chia sẻ.
Theo số liệu của Bộ Tư pháp, sau bảy năm thi hành Luật Công chứng 2014, cả nước có gần 40 triệu hợp đồng, giao dịch được công chứng, nhưng chỉ dưới 0,01% phát sinh tranh chấp, trong đó rất ít trường hợp phải bồi thường. “Đó là minh chứng cho vai trò của công chứng viên – những ‘thẩm phán phòng ngừa’ thầm lặng nhưng hiệu quả, góp phần giữ ổn định và bảo đảm niềm tin vào pháp luật" - ông Tình nhấn mạnh.
Ông Tình cho rằng Cơ sở dữ liệu quốc gia (về dân cư, đất đai, đăng ký phương tiện) chỉ nên là nguồn cung cấp thông tin chính xác, tin cậy về nhân thân và tài sản, chứ không thể thay thế giao dịch có công chứng. Việc công chứng là quyền lựa chọn của người dân để bảo đảm tài sản, nhất là bất động sản, được chuyển giao an toàn và minh bạch. Bên cạnh đó, bất động sản là nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, nên mọi thay đổi thủ tục cần được cân nhắc kỹ để vừa thuận lợi vừa bảo đảm an toàn pháp lý.
Cùng quan điểm, ông Bùi Ngọc Long, Trưởng Văn phòng công chứng Bùi Ngọc Long, nhấn mạnh: “Trách nhiệm của công chứng viên rất cao - nếu sai phải bồi thường. Nhưng chính điều đó tạo nên sự tin cậy, giúp các bên an tâm khi giao dịch".
Theo ông Long, mỗi năm có hàng triệu giao dịch công chứng góp phần ngăn ngừa rủi ro, tiết kiệm chi phí và tránh tranh chấp. “Nếu bỏ công chứng, các bên phải tự chịu rủi ro, tự xử lý khi tranh chấp phát sinh, thiệt hại sẽ lớn hơn nhiều so với việc duy trì công chứng như một lớp bảo vệ pháp lý" - ông Long nhận định.
Ông Long chia sẻ, trong thực tiễn hành nghề, công chứng viên thường xuyên phát hiện người giả mạo chủ sở hữu, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi bị người thân ép ký tặng, bán tài sản để chiếm đoạt. Nhiều trường hợp giao dịch giả tạo, trá hình vay tiền nhưng bị buộc ký hợp đồng mua bán hoặc ủy quyền nhằm chiếm đoạt tài sản cũng được ngăn chặn kịp thời. “Những tình huống này, chỉ có con người với kinh nghiệm, hiểu biết và cảm nhận nghề nghiệp mới có thể nhận ra. Máy móc không thể làm được điều đó" - ông khẳng định.
Ông Long cũng lưu ý, thiết chế công chứng hiện nay được xây dựng chặt chẽ với hệ thống pháp luật, tổ chức và cơ chế quản lý thống nhất, bảo đảm tính an toàn, minh bạch trong giao dịch dân sự. Nếu thay thế hoàn toàn bằng công nghệ, không chỉ mất đi vai trò giám sát, mà còn tạo ra lỗ hổng lớn về pháp lý và niềm tin.
Phải có lộ trình rõ ràng, áp dụng theo từng giai đoạn
Ở một góc nhìn khác, Ths - Luật sư Cao Nhật Anh, Đoàn Luật sư TP.HCM, cho biết trong thời đại cách mạng 4.0, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, đề xuất bỏ công chứng, bỏ xác nhận tình trạng hôn nhân khi mua bán/chuyển nhượng đất đai và phương tiện trong các trường hợp dữ liệu đã được số hóa, làm sạch và liên thông là một bước cải cách đáng kể. Bởi điều này giảm bớt các thủ tục hành chính cho người dân, tiết kiệm chi phí, thời gian, đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tế phát triển của khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, chủ trương này chỉ có thể thực hiện được với điều kiện tiên quyết là chất lượng dữ liệu, cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và khả năng vận hành liên tục của các Cơ sở dữ liệu quốc gia và quy trình phối hợp thực thi giữa các bên liên quan.
Luật sư Cao Ngọc Anh nêu giải pháp: Thứ nhất cần phải có lộ trình rõ ràng, áp dụng theo từng giai đoạn.
Giai đoạn 1 giao dịch đơn giản, chủ thể cá nhân, tình trạng thửa đất không thế chấp /kê biên/đồng sở hữu, thửa đất không vướng quy hoạch; phương tiện không tranh chấp. Thậm chí, thí điểm ở một số địa phương có cơ sở dữ liệu đủ lớn, sau đó mới thực hiện trên phạm vi cả nước.
Giai đoạn 2 mở rộng dần sang các trường hợp phức tạp khi dữ liệu chứng minh đủ “sạch”.
Thứ hai, giữ cơ chế “tùy chọn công chứng” trong thời gian chuyển tiếp: người dân/doanh nghiệp vẫn được quyền yêu cầu công chứng nếu thấy cần thiết.
Đồng thời, có các quy định mang tính kỹ thuật để thay thế việc kiểm tra hồ sơ của công chứng như sử dụng định danh mức 2, sử dụng chữ ký số; xác thực các thông tin như: tình trạng hôn nhân/đồng sở hữu tài sản, trạng thái thế chấp/kê biên, quy hoạch, nợ thuế/phí.
Thứ ba, quy định về Cơ chế trách nhiệm - bảo hiểm - bồi thường đối với các chủ thể liên quan như ràng buộc trách nhiệm của cơ quan quản trị Cơ sở dữ liệu khi dữ liệu sai gây thiệt hại; mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp/đảm bảo rủi ro hệ thống cho tổ chức trung gian số; Quy định về xử lý sai sót: hiệu đính dữ liệu, hủy/sửa giao dịch điện tử, bồi thường nhanh.
Cuối cùng, truyền thông phổ biến kiến thức, để nâng cao hiểu biết, hỗ trợ người dân, đặc biệt là đối tượng người cao tuổi, người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn hẻo lánh.
Cần thêm thời gian
Đề xuất này nên cần thêm thời gian để thu thập thông tin, cập nhật dữ liệu và lộ trình cụ thể mới áp dụng trên diện rộng.
Bởi đối với các giao dịch về tài sản có giá trị lớn thì công chứng viên ngoài thực hiện kiểm tra tính pháp lý của tài sản để lên dự thảo hợp đồng thì còn phải đánh giá về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng đối với giao dịch mà họ sắp tiến hành.
Công nghệ, máy móc có thể dựa trên thông tin, dữ liệu được các bên cung cấp để đối chiếu và xác thực nội dung nhưng không thể kiểm soát được lời nói, cử chỉ hành vi, ý chí, cảm xúc, biểu cảm khuôn mặt để nhận diện được sự bất thường của các bên đang thực hiện giao dịch một cách tự nguyện hay bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối. Chỉ có Công chứng viên là con người dùng lý trí, cảm quan nghề nghiệp mới phát hiện ra, để có thể phòng ngừa rủi ro, hạn chế thiệt hại cho các bên, đảm bảo sự an toàn, ổn định trong các giao dịch dân sự.
Ngoài ra, khi phát sinh tranh chấp thì việc trích lục các dữ liệu công chứng điện tử cũng còn hạn chế về thời gian, quyền truy cập của những người có quyền lợi liên quan đến giao dịch chưa được quy định cụ thể.
Đặc biệt, khi thực hiện công chứng điện tử mà xảy ra thiệt hại vật chất thì chưa xác định được cơ quan, tổ chức nào có nghĩa vụ bồi thường, trong khi công chứng viên nếu có lỗi trong quá trình thực hiện nghiệp vụ dẫn đến gây thiệt hại thì tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ bồi thường cho người yêu cầu công chứng.
Luật sư NGUYỄN HÙNG QUÂN, Đoàn Luật sư TP.HCM
HUỲNH THƠ
Nguồn PLO : https://plo.vn/bo-cong-chung-trong-giao-dich-dat-dai-nen-hay-khong-post877107.html