Thực hiện Basel III và bỏ room tín dụng: Ngân hàng sẽ phân hóa mạnh
Trong Báo cáo Tâm điểm Ngành Ngân hàng Việt Nam nửa đầu năm 2025: "Từ Tăng trưởng đến Cải thiện Khả năng chống chịu - Năng lực vốn định hình triển vọng Ngân hàng Việt Nam" vừa công bố, FiinRatings cho rằng, tín dụng năm 2025 tăng trưởng trên diện rộng, song đà tăng sắp tới sẽ phân hóa theo năng lực vốn.
Trong nửa đầu 2025, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 10% so với cuối năm 2024 và khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước, đưa tổng dư nợ lên khoảng 17,2 triệu tỷ đồng - mức cao nhất trong hai năm qua. Tỷ lệ tín dụng/GDP tiếp tục tăng; theo ước tính chính thức đạt khoảng 134% vào cuối năm 2024, và ước tính của FiinRatings là khoảng 146% vào cuối năm 2025.
Nhóm phân tích lưu ý, từ cuối năm 2025, các yêu cầu về vốn theo chuẩn Basel III và việc gỡ bỏ room tín dụng sẽ tạo ra sự phân hóa ngày càng rõ giữa các ngân hàng. Các ngân hàng có quy mô và năng lực vốn lớn sẽ mở rộng thị phần, trong khi các ngân hàng nhỏ cần điều tiết tăng trưởng để cân bằng vốn, lợi nhuận và chất lượng tài sản.
Tăng trưởng tín dụng tiếp tục vượt tăng trưởng huy động, khiến các ngân hàng phải dựa nhiều hơn vào nguồn vốn bán buôn và phát hành trái phiếu. Trong nửa đầu năm nay, trái phiếu ngân hàng chiếm 76,3% tổng lượng phát hành của thị trường, tương đương 189.700 tỷ đồng.
Chi phí huy động trong nửa đầu 2025 được kiểm soát nhưng chưa giảm: tiền gửi ổn định, lãi suất liên ngân hàng ở mức khoảng 4%, trong khi lãi suất trái phiếu ngân hàng dao động quanh 6-7%/năm. Các ngân hàng lớn (Ngân hàng quốc doanh và nhóm 4 ngân hàng TMCP tư nhân hàng đầu) hưởng lợi nhờ nguồn tiền gửi ổn định hơn và khả năng tiếp cận thị trường trái phiếu tốt, đồng thời được hưởng lợi từ việc giảm dự phòng bắt buộc, giúp tăng thanh khoản và giảm chi phí huy động.
Trong khi đó, các ngân hàng TMCP nhỏ hơn đối mặt với cạnh tranh huy động gay gắt và chi phí vốn bán buôn cao hơn, buộc họ phải kéo dài kỳ hạn nguồn vốn và quản lý chặt chẽ cân đối tài sản - nợ (ALM) để tuân thủ trần 30% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, đồng thời duy trì biên lợi nhuận hợp lý.
Ngân hàng nhỏ có thể phải hãm phanh tín dụng để đảm bảo an toàn vốn
Theo FiinRatings, nguồn vốn tạm thời của hệ thống ngân hàng được củng cố nhờ phát hành trái phiếu cấp 2, nhưng áp lực lên vốn lõi gia tăng trước thềm Thông tư 14/2025/TT-NHNN có hiệu lực. Cụ thể, vốn cấp 1 (Tier 1) vẫn chiếm tỷ trọng chủ đạo trong cơ cấu vốn của các ngân hàng, song sự phụ thuộc vào vốn cấp 2 (Tier 2) đã tăng kể từ năm 2024, đặc biệt thông qua hoạt động phát hành trái phiếu của nhóm ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) quy mô trung bình.
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) toàn ngành nhìn chung ổn định, song có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Nhóm ngân hàng quốc doanh cải thiện CAR từ khoảng 9,2% năm 2023 lên 10,7% trong nửa đầu 2025, chủ yếu nhờ phát hành trái phiếu cấp 2. Ngược lại, Top 4 ngân hàng TMCP tư nhân ghi nhận CAR giảm nhẹ xuống khoảng 12,7% do tăng trưởng tài sản có rủi ro vượt tốc độ tăng của vốn, trong khi các ngân hàng TMCP khác duy trì quanh mức 11%, phản ánh áp lực tăng trưởng tương tự dù vẫn có hoạt động phát hành trái phiếu.
Theo FiinRatings, vốn tạm thời được củng cố nhờ phát hành trái phiếu cấp 2, nhưng áp lực lên vốn lõi gia tăng trước thềm Thông tư 14 của NHNN có hiệu lực. Thông tư 14 đưa ra quy định chi tiết về vốn lõi cấp 1, vốn cấp 1 và bộ đệm an toàn vốn, qua đó siết chặt yêu cầu về nguồn vốn tự có và lợi nhuận giữ lại. Điều này khiến chỉ tiêu CAR đơn lẻ không còn phản ánh đầy đủ năng lực vốn của ngân hàng.
Để cân bằng giữa tăng trưởng tín dụng và ràng buộc về vốn, các chuyên gia FiinRatings dự báo các nhóm ngân hàng sẽ có chiến lược khác nhau.
Theo đó, các ngân hàng quốc doanh dự kiến tập trung tăng vốn lõi thông qua giữ lại lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng vừa phải; nhóm ngân hàng TMCP lớn kết hợp giữa giữ lại lợi nhuận và phát hành trái phiếu cấp 2 linh hoạt nhằm hỗ trợ tăng trưởng có chọn lọc.
Tuy vậy, các ngân hàng TMCP nhỏ có thể phải lựa chọn giữa phát hành thêm cổ phần mới hoặc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng để đảm bảo an toàn vốn.
Bộ đệm chống chịu rủi ro tín dụng của các ngân hàng đang thu hẹp
Báo cáo của FiinRatings cho thấy, so với đỉnh 2023, tỷ lệ nợ có vấn đề giảm dần trong năm 2024 và nửa đầu năm 2025. Nợ xấu (NPL) toàn ngành chỉ còn xấp xỉ 1,9% trong nửa đầu năm 2025 (so với 2,2% cùng kì 2024) cho thấy số lượng nợ xấu tiềm tàng đang thu hẹp.
Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ nợ xấu lại giảm nhẹ và vẫn thấp hơn mức đỉnh năm 2022, phản ánh việc các ngân hàng đang dựa nhiều hơn vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì chỉ gia tăng trích lập dự phòng.
Khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển thành nợ cần chú ý (SML) hoặc nợ xấu (NPL). Rủi ro này tập trung cao hơn ở các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ, với bộ đệm vốn mỏng hơn.
Ngoài ra, các chuyên gia phân tích FiinRatings cũng cho rằng, các chỉ tiêu về vốn và khả năng sinh lời nhìn chung đều suy giảm trên hầu hết các nhóm ngân hàng. Ngay cả ở các ngân hàng có năng lực tín dụng cao, tỷ lệ bao phủ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng cũng giảm.
"Điều này cho thấy bộ đệm chống chịu rủi ro tín dụng đang thu hẹp trước áp lực chất lượng tài sản", báo cáo nhận định.
Thùy Liên