Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý hai Đại học Quốc gia: Đổi mới quản trị

Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý hai Đại học Quốc gia: Đổi mới quản trị
3 giờ trướcBài gốc
Sinh viên Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) chào đón năm học mới. Ảnh: HCMUT
Đây là bước đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả điều hành, bảo đảm thống nhất trong hệ thống giáo dục đại học quốc gia. Chủ trương này mang lại nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cần được nhìn nhận và giải quyết thấu đáo.
Lan tỏa mô hình đầu tàu cho toàn hệ thống
Theo Nghị định số 201/2025/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Đại học Quốc gia (Nghị định 201), từ ngày 1/9/2025, Đại học Quốc gia là cơ sở giáo dục đại học công lập do Bộ GD&ĐT quản lý, có tư cách pháp nhân, tài khoản riêng và sử dụng con dấu có hình Quốc huy. Chức năng của Đại học Quốc gia là đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao; có một số lĩnh vực đào tạo dẫn đầu trong nước và được xếp hạng cao trên thế giới.
Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, Nghị định 201 đã trao quyền tự chủ rất cao trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy, tài chính, hợp tác quốc tế và phát triển nhân lực chất lượng cao. Hệ thống quản trị đại học hiện đại được tổ chức phân cấp - phân quyền rõ ràng, gắn trách nhiệm giải trình...
PGS.TS Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nhận định, việc Bộ GD&ĐT chính thức quản lý trực tiếp hai Đại học Quốc gia mang lại thuận lợi lớn cho các đơn vị. Theo đó, quyền tự chủ sẽ được tăng cường cao hơn về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức bộ máy và tài chính. Từ đó, giúp phát hiện, bồi dưỡng nhân tài và định hướng phát triển các chương trình đào tạo chuyên biệt, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Theo TS Vũ Quảng - Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục TP Hồ Chí Minh, sự thay đổi trên có ý nghĩa tích cực, góp phần tăng cường tính thống nhất trong hệ thống quản lý giáo dục đại học; đồng thời tạo môi trường bình đẳng về quản lý Nhà nước giữa các cơ sở giáo dục.
Nhấn mạnh, ba lợi ích lớn khi hai Đại học Quốc gia về Bộ GD&ĐT quản lý, TS Vũ Quảng phân tích, thứ nhất, tạo điều kiện để công tác quản lý và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục trở nên tập trung, đồng bộ.
Thứ hai, tăng cường vai trò giám sát và kiểm định chất lượng, bởi Bộ GD&ĐT sẽ áp dụng cùng một bộ tiêu chí cho toàn hệ thống, đảm bảo minh bạch và công bằng, ngay cả với những đơn vị đầu tàu. Thứ ba, thúc đẩy liên kết và hợp tác giữa Đại học Quốc gia và các trường đại học khác, giúp hình thành mạng lưới nghiên cứu - đào tạo mạnh mẽ hơn.
Hoạt động nghiên cứu khoa học ở Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: VNU
Dung hòa quản lý tập trung và tự chủ đại học
Đồng quan điểm, TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho rằng, việc Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý hai Đại học Quốc gia là phù hợp cả về đạo lý lẫn pháp lý và thuận với quy luật khách quan. Qua đó, sẽ tạo sự thống nhất trong chỉ đạo và hoạch định chính sách.
Từ trước đến nay, hai Đại học Quốc gia vốn được coi là “đầu tàu” của hệ thống giáo dục đại học. Khi trực thuộc Bộ GD&ĐT, hai đại học này có điều kiện thuận lợi hơn trong tiếp cận các chính sách vĩ mô, triển khai nhanh các chương trình chiến lược, đồng thời tạo sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị thuộc Bộ, từ đó lan tỏa mô hình quản trị và học thuật ra toàn hệ thống.
Ngoài ra, khi Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý đồng nghĩa việc giám sát chặt chẽ hơn về chất lượng đào tạo, nghiên cứu, cũng như sử dụng nguồn lực tài chính, nhân sự. Đây là điều kiện quan trọng để hai Đại học Quốc gia tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, đồng thời góp phần chuẩn hóa và nâng tầm vị thế giáo dục đại học Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, TS Lê Viết Khuyến nhận định, việc thay đổi mô hình quản lý đặt ra không ít thách thức. Thứ nhất, dung hòa giữa quản lý tập trung và cơ chế tự chủ đại học - vốn là lợi thế và đặc trưng của hai Đại học Quốc gia.
Nếu cơ chế điều hành quá hành chính hóa, cứng nhắc thì có thể dẫn tới kìm hãm tính năng động và sáng tạo của hai đơn vị này. Thứ hai, quá trình chuyển đổi mô hình quản lý đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhân sự, tài chính, cơ chế phối hợp. Do đó, việc bảo đảm ổn định hoạt động đào tạo, nghiên cứu trong giai đoạn đầu sẽ là thách thức không nhỏ.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam kỳ vọng, đây không chỉ dừng lại ở thay đổi đầu mối quản lý, mà thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng, phát triển học thuật và hội nhập quốc tế. “Muốn vậy, cần sự quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”, ông Lê Viết Khuyến nhấn mạnh.
Ông cho rằng, thành công hay không phụ thuộc vào cách thức triển khai, đặc biệt là sự linh hoạt trong quản lý, kiên định mục tiêu nâng cao chất lượng và bảo đảm tính tự chủ đại học. Khi dung hòa được hai yếu tố này, hai Đại học Quốc gia sẽ tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu, góp phần đưa nền giáo dục đại học Việt Nam vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên hội nhập.
Cơ hội “vàng” để nâng cao chất lượng quản trị đại học
Chỉ ra những thách thức không nhỏ, TS Vũ Quảng trao đổi, ban lãnh đạo Đại học Quốc gia buộc phải chủ động xây dựng chiến lược dài hạn, đưa ra các quyết định mang tính đột phá và chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả. Điều này đòi hỏi họ không chỉ giỏi quản trị tài chính, nhân sự, mà còn phải có năng lực quản lý rủi ro, truyền thông và ứng phó khủng hoảng.
“Thách thức lớn nhất không nằm ở việc Đại học Quốc gia có ít hay nhiều quyền, mà ở năng lực của cán bộ quản lý trong dung hòa tự chủ với trách nhiệm giải trình, biến áp lực kép thành động lực cải cách”, TS Vũ Quảng nhấn mạnh.
Khẳng định, chuyển giao này là hợp lý, TS Lê Đông Phương - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) phân tích: Trước đây, nhiều hoạt động của Đại học Quốc gia mang tính tự thiết kế, tự vận hành, khiến Bộ GD&ĐT khó nắm bắt và thiếu điều phối. Nay tập trung về một mối sẽ giúp quản lý Nhà nước nhất quán, minh bạch hơn, đặc biệt trong bối cảnh hai Đại học Quốc gia có quy mô rất lớn, mỗi nơi từ 50.000 - 70.000 sinh viên.
Tuy nhiên, TS Phương cũng thẳng thắn nhìn nhận, tự chủ luôn đi kèm thách thức. Khi vừa được tăng quyền tự quyết, vừa chịu sự giám sát tập trung, Đại học Quốc gia buộc phải tìm cách cân bằng giữa sáng tạo học thuật và mục tiêu phát triển chung. “Đưa về một chỗ quản lý sẽ đồng đều hơn, Chính phủ cũng đỡ rối vì không phải trực tiếp điều hành riêng hai đại học đặc thù, nhưng quan trọng là cơ chế đặc thù của Đại học Quốc gia vẫn phải được giữ để phát huy vai trò đầu tàu”, TS Lê Đông Phương nói.
Thực tế, Nghị định 201 quy định rõ cơ chế riêng cho Đại học Quốc gia, coi đây là mô hình đặc thù với tư cách pháp nhân, dự toán ngân sách cấp I, sử dụng con dấu Quốc huy và quyền tự chủ cao về đào tạo, nghiên cứu, hợp tác quốc tế.
Theo TS Vũ Quảng, chính cơ chế này vừa là lợi thế, vừa là thách thức. Lợi thế vì Đại học Quốc gia có thể đi đầu trong thử nghiệm chính sách, thu hút nguồn lực, tạo sức lan tỏa cho toàn hệ thống. Nhưng cũng có nguy cơ làm giảm sự linh hoạt vốn có, gây khó khăn trong phối hợp, tăng áp lực giải trình và ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư.
Từ góc độ đào tạo cán bộ quản lý, TS Vũ Quảng kỳ vọng sự đổi mới mô hình quản lý Đại học Quốc gia sẽ trở thành cơ hội “vàng” để nâng cao chất lượng quản trị đại học. “Đây là thời điểm để biến việc bồi dưỡng hành chính đơn thuần thành huấn luyện lãnh đạo chuyên nghiệp, góp phần quyết định thành công của đổi mới giáo dục đại học trong tương lai”, ông khẳng định.
Có thể thấy, dù còn không ít băn khoăn, việc chuyển hai Đại học Quốc gia về Bộ GD&ĐT quản lý đang mở ra cơ hội hình thành một hệ thống quản lý đại học thống nhất, minh bạch, đồng thời thử thách bản lĩnh quản trị của đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh đổi mới và hội nhập sâu rộng.
Cả nước có hơn 240 trường đại học, trong đó hai Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh do Chính phủ thành lập lần lượt vào năm 1993 và 1995, với tổng quy mô đào tạo khoảng 150.000 sinh viên.
Hai đại học này được đánh giá là những cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu, chiếm tỷ trọng lớn trong số công bố quốc tế và xếp hạng khu vực. Theo QS Asia 2025, cả hai trường đều có mặt trong top 300 châu Á. Theo quy hoạch, đến năm 2030, Việt Nam sẽ có thêm Đại học Quốc gia Huế và Đà Nẵng.
Minh Phong – Thùy Linh
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/bo-gddt-truc-tiep-quan-ly-hai-dai-hoc-quoc-gia-doi-moi-quan-tri-post747944.html