Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh báo cáo tiếp thu, giải trình dự án Luật trước khi Quốc hội thông qua (Ảnh: Quang Vinh)
Trước đó, trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến về dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, Chính phủ đề xuất giảm số lượng tội danh có hình phạt tử hình nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng; trên cơ sở kế thừa chủ trương thu hẹp dần hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự qua các lần sửa đổi.
Cụ thể, tại Bộ luật Hình sự năm 1985 có 44 tội có hình phạt tử hình, đến Bộ luật Hình sự năm 1999 còn 29 tội có hình phạt tử hình, Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 còn 22 tội có hình phạt tử hình, đến Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ còn 18 tội có hình phạt tử hình.
Trong lần sửa đổi này, Chính phủ đề xuất bỏ 8 tội danh có hình phạt tử hình trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng về các vấn đề sau: Trước hết, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; tầm quan trọng của khách thể được bảo vệ; khả năng khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra
Hai là, căn cứ kết quả tổng kết công tác thi hành Bộ luật Hình sự, nhiều tội danh có quy định về hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế thời gian qua
Ba là, tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay, xu hướng về việc giảm hình phạt tử hình trong quy định của pháp luật cũng như thực tế thi hành trên thế giới là phổ biến. Trong 193 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc chỉ còn hơn 50 quốc gia quy định về hình phạt tử hình.
Bốn là, trách nhiệm, nghĩa vụ của Việt Nam khi là thành viên của các điều ước quốc tế có liên quan, đặc biệt tại khoản 2 Điều 6 Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị xác định: “Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất”
Năm là, phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế của nước ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang mở rộng hợp tác quốc tế một cách sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ với đa số các nước trên thế giới sẽ góp phần tạo thuận lợi trong việc thúc đẩy các quan hệ hợp tác ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau. Sáu là, trách nhiệm, năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Từ các vấn đề trên, Chính phủ nhận thấy bỏ hình phạt tử hình ở 8 tội danh trong dự thảo Luật trình Quốc hội là phù hợp.
Riêng đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, nhằm bảo đảm thu hồi tài sản do phạm tội mà có, đồng thời khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo, giải quyết vụ án, dự thảo Luật sửa đổi quy định: “Người bị kết án tù chung thân về tộ tham ô tài sản, tội nhận hối lộ chỉ có thể được xét giảm án thời hạn chấp hành hình phạt khi đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Về tội sử dụng trái phép chất ma túy, dự thảo bổ sung tội danh sử dụng trái phép chất ma túy theo hướng chỉ xử lý đối với những người đang trong quá trình cai nghiện hoặc vừa kết thúc quá trình cai nghiện ma túy mà tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.
Theo ông Ninh, quy định này nhằm thực hiện chủ trương áp dụng chính sách hình sự nghiêm khắc hơn, giảm cầu ma túy, chặn đứng mối quan hệ cung – cầu ma túy. Ngoài ra, thực tế đấu tranh cho thấy, tình hình nghiện ma túy đang diễn ra phức tạp, số người nghiện có xu hướng gia tăng. Người dùng trái phép ma túy có tình trạng ngáo đá, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như giết người có chiều hướng gia tăng. Tỷ lệ tội phạm do người sử dụng trái phép chất ma túy, theo thống kê từ 1/1/2018 – 31/5/2025 chiếm khoảng 10% tổng số tội phạm được phát hiện.
Đặc biệt tội phạm giết người do người nghiện ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy gây ra trong thời gian này là trên 200 vụ (trong đó có trên 40 vụ giết người thân trong gia đình). Pháp luật hiện hành chưa quy định xử lý về tội sử dụng trái phép chất ma túy và tội danh này chủ yếu là đối với người tàng trữ để sử dụng. Như vậy, một người sau khi mua chất ma túy để sử dụng, nếu chưa kịp sử dụng mà bị phát hiện thì bị xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, còn nếu đang hoặc đã sử dụng thì lại không bị xử lý về hành vi tương ứng.
Ông Ninh nhấn mạnh: Nghiện ma túy nếu không được quản lý tốt để kéo giảm số lượng người nghiện thì sẽ “lây lan” đối với những người khác. Thực tiễn cho thấy, hiện nay, số lượng người sử dụng trái phép, nghiện ma túy đang có xu hướng trẻ hóa, một bộ phận giới trẻ dễ bị rủ rê, lôi kéo vào con đường sử dụng trái phép chất ma túy, tìm tới ma túy để giải tỏa áp lực trong cuộc sống; nhiều người sử dụng ma túy như một cách thể hiện bản thân. Nếu không có biện pháp “giảm cầu” hữu hiệu thì nguy cơ về việc ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động và giống nòi là vấn đề rất nhức nhối đặt ra.
Thực tế công tác cai nghiện ma túy cho thấy, nhiều người đang trong quá trình cai nghiện ma túy song sau khi kết thúc quá trình cai nghiện vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa có biện pháp hoặc chế tài để xử lý đối với những trường hợp này.
Luật sửa đổi lần này cũng quy định nâng mức hình phạt tù, hình phạt tiền đối với một số tội danh như: tăng mức hình phạt tù khởi điểm đối với một số tội về môi trường, an toàn thực phẩm, ma túy như tội gây ô nhiễm môi trường, tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, tội sản xuất trái phép chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy, tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm.
Đồng thời, nâng mức hình phạt tiền gấp 2 lần đối với các tội phạm về môi trường, sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.
“Đây là các tội phạm có tính nguy hiểm cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, gây thiệt hại lớn về kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay, có tính đến các yếu tố biến động kinh tế, đơn giá, thu nhập bình quân đầu người”, ông Ninh nói.
Việt Thắng