Ảnh minh họa
Bộ Nội vụ trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới sau Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV liên quan đến vấn đề sửa đổi quy định về tuổi nghỉ hưu đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Bộ Nội vụ cho biết vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được Trung ương thảo luận trong Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, và thống nhất thông qua tại Nghị quyết 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
Thể chế hóa chủ trương tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết 28-NQ/TW, Quốc hội đã thống nhất ban hành Bộ luật Lao động 2019, trong đó nội dung tuổi nghỉ hưu, điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đã được quy định tại Điều 169 và Điều 219.
Theo Bộ Nội vụ, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Bộ luật Lao động 2019, vấn đề tuổi nghỉ hưu đã được trao đổi, thảo luận và đánh giá một cách kỹ lưỡng, tổng thể các mặt có liên quan.
Chính vì vậy, Bộ luật Lao động quy định việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu không thực hiện tăng ngay lên 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ, mà được điều chỉnh theo lộ trình.
Theo đó, mỗi năm chỉ tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ, cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028, và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường.
Chính vì vậy, Luật Bảo hiểm xã hội 2024 đã kế thừa, đảm bảo tính thống nhất về tuổi nghỉ hưu đã được quy định tại Bộ luật Lao động.
Liên quan đến quy định về độ tuổi nghỉ hưu, tại Điều 169 Bộ luật Lao động 2019, người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu.
Người lao động thuộc có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định, bao gồm các trường hợp: Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.
Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Người lao động có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 15 năm trở lên.
Người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, nhưng không quá 5 tuổi so với quy định: Người lao động có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn khi thỏa thuận với người sử dụng lao động tiếp tục làm việc sau tuổi nghỉ hưu.
Việc chấm dứt hợp đồng lao động và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động quy định trên thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động 2019 và quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Thu Hằng