Công trình Kè chống sạt lở bờ biển, đê chắn cát, giảm sóng phía bắc cửa Tư Hiền, xã Vinh Lộc đang triển khai thi công. Ảnh: Nguyễn Khánh
Với vùng đất Huế, bão lũ gây ra nhiều nỗi lo với những cung bậc khác nhau và theo cách nói nôm na của cha ông mình là “tứ bề thọ địch”. Ví như với vùng miền núi, gò đồi hay ở thượng nguồn các con sông, đó là nỗi lo lũ ống, lũ quét gây nên trình trạng sạt đồi, lở núi nguy hiểm; ở vùng đồng bằng phía hạ du là sự ngập úng kéo dài thì ở vùng ven biển đó là trình trạng xâm thực, sạt lở bờ biển và những hệ lụy khôn lường.
Lâu nay, ở khu vực phường Thuận An, nhất là đoạn ở bãi tắm Phú Thuận, đó là được xem “chuyện thường ngày, khổ quá nói mãi”. Thế nhưng, dù đã chuẩn bị tâm thế, nhưng ngay sau bão dữ Bualoi (bão số 10), UBND thành phố Huế đã phải công bố tình huống khẩn cấp về thiên tai và ngay lập tức chọn giải pháp xây dựng bờ kè chắn sóng mềm tại đây.
Mưa to và gió lớn, sóng biển liên tục vỗ bờ, xâm thực sâu vào ven biển với chiều dài khoảng 1km, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của hàng trăm hộ dân sống gần khu vực bãi tắm. Và cũng gần như ngay lập tức, một bờ kè chắn sóng đã hình thành tại bờ biển phường Thuận An có chiều dài 450m nhằm ngăn chặn sạt lở, biển xâm thực vào các khu dân cư với tổng vốn đầu tư khoảng 1,2 tỷ đồng. Nhờ đó mà người dân tạm yên tâm trước bão lũ sau đó.
Gọi đó là bờ kè mềm là để phân biệt với giải phép bờ kè cứng, vốn không quá xa lạ với vùng biển Huế. Tiêu biểu cho kè biển cứng ở Huế là công trình Thuận An - Tư Hiền có nguồn vốn đầu tư theo quyết định phê duyệt của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là TP. Huế) lên đến trên 300 tỷ đồng. Tuyến kè dài khoảng 3.090m, nhằm ngăn chặn sự xói lở, bảo vệ bờ biển đoạn Thuận An - Tư Hiền. Hay ở một quy mô có phần nhỏ hơn là dự án kè chống sạt lở bờ biển Quảng Công (nay là xã Phong Quảng) có tổng vốn đầu tư trên 278 tỷ đồng, dài gần 2,7km.
Theo thuật ngữ kỹ thuật, bờ kè ở phường Thuận An vừa được xây dựng thuộc hệ thống bờ kè mềm (hay còn gọi là kè mềm, bờ kè mềm dẻo) là một loại công trình bảo vệ bờ biển sử dụng các vật liệu tự nhiên hoặc bán tự nhiên (như cây cối, thực vật thủy sinh, túi địa kỹ thuật chứa cát/đất, rọ đá…) để chống xói lở, ổn định bờ, phân biệt với bờ kè cứng sử dụng bê tông cốt thép kiên cố.
Được thi công khẩn cấp trong thời gian rất ngắn nên rõ ràng, bờ kè mềm (ống địa kỹ thuật bơm cát) có tuổi thọ ngắn, dễ hư hỏng bởi sóng mạnh và bão to, yêu cầu bảo dưỡng liên tục, hiệu quả chắn sóng thấp, phụ thuộc nguồn cát và thời tiết, gây nhiều tác hại môi trường, không phù hợp với địa hình dốc cao… Vậy nên, bờ kè mềm chỉ là giải pháp tạm thời, dùng để cứu nguy trong những trường hợp khẩn cấp. Để có giá trị bảo vệ mang tính bền vững và lâu dài, cần có những bờ kè cứng bằng bê tông cốt thép.
Hệ thống kè biển ở Huế là một phần quan trọng trong các dự án chống sạt lở bờ biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ khu dân cư, hạ tầng giao thông và phát triển kinh tế biển. Với bờ biển dài khoảng 120km, khu vực này thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ, xâm thực biển và triều cường, dẫn đến sạt lở nghiêm trọng. Được biết, các công trình kè biển ở Huế chủ yếu sử dụng vật liệu bê tông cốt thép, đá hộc, kè mềm (vải địa kỹ thuật bơm cát) hoặc rọ đá, được đầu tư từ ngân sách trung ương, địa phương và các chương trình ứng phó thiên tai.
Đê biển thường được đắp ở vùng ven đầm phá hoặc cửa sông, cách bờ biển chừng 100 - 150m để chặn nước triều, ngăn mặn, bảo vệ vùng trũng. Đê biển chịu áp lực nước (triều, lũ) nhưng không chịu sóng trực tiếp. Trong khi đó, kè biển có chức năng chống xói lở bờ, bảo vệ bờ biển dốc chịu sóng cấp 12+, va đập đá. Kè biển được xây dựng trực tiếp trên bờ biển, có chân kè chạm đáy biển (-1 đến - 3m).
Tính chất đa dạng văn hóa của Huế được thể hiện khi vùng đất này vừa có đê biển mà tiêu biểu như đê ngăn mặn phá Tam Giang (xã Đan Điền) hay đê sông Hương - cửa biển Thuận An, vừa có kè biển mà lớn nhất là kè Thuận An - Tư Hiền (dài 3,1km). Đặc biệt, TP. Huế là khu vực ven biển miền Trung thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ, sạt lở và xâm thực biển do vị trí gần phá Tam Giang - Cầu Hai. Việc xây dựng kè ven biển, đặc biệt là kè cứng nhằm bảo vệ bờ biển, hạ tầng giao thông, khu dân cư và phát triển du lịch là vấn đề được đặt ra.
Tôi nghĩ, khi đề xuất việc đầu tư hạ tầng trong dự thảo Luật Quy hoạch cần được bổ sung thêm hạng mục “kè biển”, bên cạnh hệ thống đê biển như hiện nay, ông Lê Trường Lưu đã xuất phát đầu tiên từ thực tiễn ở Huế, nơi ông là lãnh đạo chủ chốt hàng chục năm nay. “Thực tế ở nhiều địa phương miền Trung và miền Nam, như Cà Mau, không có đê mà chủ yếu là kè chống sạt lở. Hiện nay, biển xâm thực ngày càng nghiêm trọng, nguồn lực cho kè biển cũng rất lớn, vì vậy cần được xem là một hạng mục trọng yếu trong quy hoạch hạ tầng quốc gia”, ông Lưu nhấn mạnh.
Đan Duy