Bộ Tài chính vừa gửi Bộ Tư pháp hồ sơ thẩm định dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi). Điểm đáng chú ý là dự thảo luật đề xuất sửa đổi quy định về mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế và người phụ thuộc.
Theo quy định hiện hành, cá nhân được trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp... trừ đi mức giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, phụ cấp, trợ cấp theo quy định... số còn lại mới là thu nhập làm căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân.
Bộ Tài chính cho biết, với mức giảm trừ hiện nay là 11 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc, cá nhân có thu nhập 17 triệu đồng/tháng (nếu có 1 người phụ thuộc) hay mức 22 triệu đồng/tháng (nếu có 2 người phụ thuộc) sau khi trừ các khoản giảm trừ vẫn chưa phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Bộ Tài chính đề xuất giao Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh. Ảnh: Nam Khánh
Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh nên gắn với mức lương tối thiểu vùng, hoặc phân biệt theo khu vực do chi phí sinh hoạt ở đô thị, thành phố lớn cao hơn khu vực nông thôn, miền núi.
Tuy nhiên, Bộ Tài chính cho rằng mức giảm trừ gia cảnh phải cho người nộp thuế, người phụ thuộc được áp dụng thống nhất, dựa trên mặt bằng chung của xã hội, không phân biệt địa bàn hay thu nhập.
Thực tế, pháp luật thuế thu nhập cá nhân của cả các nước, cả phát triển lẫn đang phát triển, đều quy định một mức giảm trừ chung, áp dụng thống nhất, không phân biệt theo địa bàn và các bộ phận dân cư.
Đối với các cá nhân làm việc tại các địa bàn khó khăn, Luật Thuế thu nhập cá nhân đã quy định không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân khoản trợ cấp khu vực, trợ cấp thu hút, trợ cấp chuyển vùng... nhằm hỗ trợ người lao động cũng như thu hút cá nhân làm việc tại các địa bàn này.
Ngoài ra, cá nhân gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo, theo quy định hiện hành cũng được xem xét giảm thuế.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước thường chia khoản giảm trừ thành 3 nhóm: giảm trừ chung cho bản thân người nộp thuế; giảm trừ cho người phụ thuộc (con, vợ/chồng, cha mẹ...); giảm trừ có tính chất đặc thù (chi phí y tế, giáo dục...).
Quy mô của các khoản giảm trừ chủ yếu dựa vào quan điểm của từng nước, thường không dựa vào một công thức cụ thể nào.
Hầu hết các nước đều xác định mức giảm trừ cho người nộp thuế dao động từ 0,5-1,5 lần thu nhập bình quân đầu người. Nếu tính thêm giảm trừ cho người phụ thuộc, mức giảm trừ gia cảnh thường tương đương khoảng từ 1-2 lần thu nhập bình quân đầu người.
Theo Bộ Tài chính, việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân cần đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh sống của người nộp thuế đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội, mức sống và thu nhập bình quân của người lao động. Vì vậy, dự thảo đề xuất giao Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh, nhằm tạo sự linh hoạt, chủ động điều chỉnh phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Nguyễn Lê