Bộ Y tế đang dự thảo Thông tư quy định về gần 1.100 danh mục các xét nghiệm, dịch vụ cận lâm sàng và điều kiện sử dụng kết quả cận lâm sàng khi liên thông kết quả giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Dự thảo Thông tư đề xuất quy định về danh mục các xét nghiệm, dịch vụ cận lâm sàng và điều kiện sử dụng kết quả cận lâm sàng khi liên thông kết quả giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, áp dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên phạm vi toàn quốc.
Kết quả xét nghiệm: Bộ Y tế đề xuất các danh mục kỹ thuật xét nghiệm hóa sinh được đề xuất có 40; huyết học được đề xuất là 55; vi sinh được đề xuất là 26; di truyền - sinh học phân tử được đề xuất là 86; giải phẫu bệnh đề xuất là 14.
Theo dự thảo, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tự đánh giá công khai chất lượng xét nghiệm và cơ quan quản lý chuyên môn công bố đạt chất lượng từ mức 1 trở lên theo quy định tại Quyết định số 2429/QĐ-BYT ngày 12/6/2017 của Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu chí đánh giá mức chất lượng phòng xét nghiệm y học, liên thông, công nhận kết quả theo nguyên tắc: Công nhận kết quả lẫn nhau giữa các phòng đạt cùng mức chất lượng; phòng đạt mức chất lượng thấp công nhận kết quả của nơi đạt mức cao hơn.
Bộ Y tế đề xuất nhiều danh mục kết quả. Ảnh: Thu Ngô.
Bác sĩ khám, điều trị cho người bệnh là người quyết định việc sử dụng kết quả xét nghiệm liên thông hay cần thiết chỉ định xét nghiệm lại tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý và diễn biến lâm sàng của người bệnh.
Đối với kết quả điện quang: Tổng các danh mục điện quang là 893. Kết quả chẩn đoán hình ảnh (dữ liệu số, kết quả mô tả, kết luận) là một phần trong hồ sơ bệnh án và có giá trị pháp lý khi được thực hiện tại cơ sở khám chữa bệnh được cấp phép hoạt động đúng phạm vi chuyên môn; có chữ ký, tên bác sĩ thực hiện và bác sĩ chẩn đoán (bản giấy) hoặc chữ ký số/xác thực điện tử (bản điện tử).
Cơ sở tiếp nhận có quyền sử dụng kết quả đó để tham khảo, làm căn cứ điều trị, không bắt buộc làm lại xét nghiệm/chẩn đoán hình ảnh nếu chất lượng và tính pháp lý đảm bảo.
Với dữ liệu hình ảnh y khoa: Yêu cầu hình ảnh phải còn nguyên vẹn, rõ ràng, đầy đủ chuỗi/xung (đối với CT, MRI), đủ thì (đối với DSA). Định dạng chuẩn DICOM, kèm phần mềm đọc hoặc tích hợp trong PACS. Dữ liệu hình ảnh kết nối PACS–PACS giữa các bệnh viện, cần có thông tin người bệnh, mã số định danh, thời gian chụp.
Theo dự thảo, cơ sở chuyển kết quả điện quang có trách nhiệm gửi kèm phiếu kết quả, dữ liệu ảnh điện tử cùng hồ sơ bệnh án khi chuyển người bệnh. Đảm bảo thông tin người bệnh trên dữ liệu ảnh trùng khớp với hồ sơ bệnh án. Không được tự ý chỉnh sửa, cắt xén dữ liệu hình ảnh.
Cơ sở tiếp nhận kết quả điện quang có thể sử dụng lại kết quả hình ảnh để chẩn đoán và điều trị nếu đạt yêu cầu. Được phép dùng để tiếp tục điều trị, nhưng có quyền quyết định chụp lại khi cần.
Bác sĩ có quyền chỉ định chụp lại trong trường hợp bệnh nhân thay đổi lâm sàng, cận lâm sàng không phù hợp với giai đoạn được chụp, chiếu trước; thời gian từ lúc chụp đến lúc tiếp nhận quá lâu, không còn phù hợp tình trạng bệnh; chất lượng hình ảnh kém, không đầy đủ chuỗi cần thiết; có nghi ngờ sai lệch thông tin người bệnh.
Phương Thúy