Phố cũ Tam Kỳ bên dòng Bàn Thạch ngày đông.
Năm nay lập đông đúng ngày 7-11 dương lịch. Tháng gì đâu ngày chưa kịp trôi qua, đêm đã vội tìm về. Bên con phố quen những ánh đèn vàng vọt đổ xuống mặt đường lênh loáng nước. Hàng cây thân thuộc trên các ngả đường như úp mặt vào bóng tối, lắng tiếng mưa đang rả rích chảy ở từng phiến lá, trên cành, nhánh từ cao xuống gốc rễ, rồi hòa vào mặt đất, mặt đường, mặt lộ.
Tháng 11, ký ức nhắc nhớ để tôi quay về với một thời cắp sách, nhắc nhớ về một ngày lễ tri ân những người đưa đò thầm lặng. Những ngôi trường ký ức của tôi lại hiện về cùng với khuôn mặt thầy, cô đậm nhạt thân sơ đã khắc sâu vào tâm thức. Nơi ấy bao lứa học trò từ đó ra đi tìm kiếm bao bờ bến lạ, để rồi một lúc nào đó mới nhận ra tình yêu vĩnh hằng vẫn chính là nơi bến xưa - con đò vẫn gác mái chờ ta ngày trở lại, nhưng người xưa và cả ngày xưa thì đã không còn.
Tôi như cơn gió lạc từ mùa cũ xa xăm chen vào bức họa mùa đông hiện tại. Tôi tìm kiếm tôi của ngày xưa và của hôm nay với bao vui buồn lẫn lộn. Tôi biết rằng phía sau những gam màu kia, những con người kia là hạnh phúc, khổ đau, giận hờn, giằng co níu kéo… Hòa trong nhịp bước những cơn mưa là nhịp đời mưu sinh hối hả, là miếng cơm manh áo hằng ngày…
Bức họa mùa đông nhắc nhớ tôi làm sao quên được hình bóng quê nhà nơi có ngọn núi xa xanh mây mù muôn đời bao phủ. Con sông quê như nét chì kẻ vào biền bãi, ruộng đồng như nét mày ngài người em gái quê phút giây ngậm ngùi chân bước sang ngang với bao toan lo “thương nhau cau sáu bổ ba/ ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Nhà phía bên chồng có ngõ sau hay không để chiều chiều còn trông về quê mẹ. Mây trắng phía đỉnh non cao, nơi địa danh Hòn Kẽm Đá Dừng đâu chỉ là chốn sơn khê thủy tú mà còn là nơi nhắc nhớ đạo nghĩa sinh thành, cái nghĩa chung tình vợ chồng ăn ở với nhau. Chợt nghe đâu đây câu thơ của Tường Linh vang vọng: “Non cao chờ gỗ hóa trầm/giấu tâm trên đỉnh, giấu tình trong tim”.
Đông về mang theo cái lạnh hanh hao, làm sao tôi quên được đôi bàn tay mẹ. Nhớ ngày ấy, lạ quê, ít chịu đựng được cái rét xứ núi quê chồng, đông về cũng lúc bàn tay mẹ cũng thường nứt nẻ, đau rát nên phải tìm sáp ong để thoa. Mỗi sáng mùa đông, mẹ vẫn luôn dậy sớm hơn bình thường. Để tránh chị em tôi thức giấc, mẹ nhón nhén đi nhen bếp, thổi lửa, nấu ấm nước cho ba rồi mới đến nồi cơm (nhưng chủ yếu là sắn có hôm là khoai ghế vào) cho chị em tôi có cái ấm bụng đến trường, đến lớp. Không hiểu sao lúc này tôi lại nhớ đến ba. Nhớ nhất là khi ông chỉ cho tôi xem những đàn chim thiên di xoải cánh theo hình mũi tên về miền xa tít tắp. Và rồi tôi lại chìm đắm suy tư về hành trình của đàn chim ấy. Sẽ có một con chim đuối sức nhưng cả đàn quyết định tiếp tục bay đi. Chú chim đuối sức bay chậm lại rồi bị bỏ dần xa với đàn, chỉ còn lại những tiếng kêu rời rạc, tôi từng nghe thấy những đêm khuya khi nhìn lên bầu trời.
Giữa bức họa mùa đông, tôi làm sao quên những ngày tháng khi mới ra trường lập nghiệp, tôi như chú chim thiên di kia rơi rớt lại phía sau bầu trời. Tôi trở về căn nhà xưa với mẹ cha và với những đêm đông thao thức. Tôi nghe mưa quê nhà vọng đến xa xôi những mấy miền quê khác lạ mà hình dung và nhớ về những người tôi yêu dấu kể cả những ai phũ phàng tệ bạc. Nghe mưa rơi rền rĩ, chơi vơi, hun hút, ngút ngàn và giá lạnh tận cùng tâm can. Đêm đông âm trầm xót đau đến băng giá cả tâm hồn.
Giữa khung cảnh mùa đông lại nhớ về Huế. Nơi đây ngày trai tôi đã có những tháng ngày gắn bó. Bức họa mùa đông ở đây lặng lẽ là những góc quán cà-phê, lặng lẽ là dòng sông Hương, lặng lẽ là màn mưa trắng xóa đất trời, lặng lẽ là những bản Trịnh ca phát ra trên gác mộc, lặng lẽ là bản thánh ca bên nhà Dòng Cứu Thế hơn một lần tôi đã đến đây và lặng lẽ là một bóng hình ai vẫn đi về cư xá… Tôi tự hỏi tại sao ở Huế dân gian lại lưu truyền câu thơ bất hủ: “Tứ thời giai thị hạ/ nhất vũ biến vi đông” (bốn mùa đều mùa hạ, chỉ một cơn mưa là biến thành mùa đông).
Nhớ rằng tôi đã rất thích một câu thơ tình của cố nhà thơ Hải Bằng đã viết bằng cả sự chiêm nghiệm đời mình: “Mùa đông em lấy lửa của tôi/ đến mùa hạ tôi đã thành đám cháy”.
Tạp bút: Võ Văn Trường