Bức tranh doanh nghiệp tư nhân Hải Phòng trước và sau sáp nhập

Bức tranh doanh nghiệp tư nhân Hải Phòng trước và sau sáp nhập
3 giờ trướcBài gốc
Trong bối cảnh Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định vai trò then chốt của kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng đất nước, sự kiện sáp nhập Hải Phòng và Hải Dương đã mở ra một thực thể hành chính – kinh tế mới với quy mô và tiềm lực vượt trội. Đây không chỉ là bước đi về địa giới, mà còn là cơ hội tái cấu trúc toàn diện, đặt khu vực doanh nghiệp tư nhân vào vị thế trung tâm trong chiến lược phát triển vùng.
Bài viết của Doanh nhân, Luật sư, GS.TS Phạm Hồng Điệp đưa ra phân tích sắc bén về thực trạng, điểm mạnh và điểm nghẽn của khu vực tư nhân trước – sau sáp nhập, đồng thời đề xuất một chương trình hành động gồm 10 trụ cột chiến lược. Đây là những gợi ý quan trọng để “Hải Phòng mới” có thể khai thác tối đa lợi thế cảng biển, công nghiệp và dịch vụ, đưa khu vực doanh nghiệp tư nhân trở thành động lực tăng trưởng bền vững của thành phố, vùng kinh tế Bắc Bộ và cả nước.
Ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW về tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân, xác định mục tiêu đến năm 2030 khu vực này đóng góp 55–58% GDP, 35–40% thu ngân sách nhà nước và có 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Trong bối cảnh đó, việc sáp nhập Hải Phòng và Hải Dương tạo ra một thực thể hành chính – kinh tế mới, với quy mô thị trường và nguồn lực vượt trội. “Hải Phòng mới” không chỉ đơn thuần là sự cộng gộp địa giới, mà còn mở ra cơ hội tái cấu trúc và nâng tầm khu vực doanh nghiệp tư nhân (DNTN), hướng tới vai trò động lực của phát triển vùng và quốc gia.
Trước sáp nhập, Hải Phòng (cũ) có gần 47.000 doanh nghiệp đăng ký, nhưng chỉ khoảng 27.000 hoạt động thực sự. Đầu năm 2025, con số doanh nghiệp đang hoạt động được quản lý địa phương ghi nhận trên 23.000. Trong giai đoạn 2019–2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp trung bình 43,4% GRDP, 43,2% vốn đầu tư thực hiện và tới 73,2% việc làm. Môi trường kinh doanh của thành phố được cải thiện mạnh, với PCI 2024 đứng đầu cả nước (74,84 điểm), phản ánh rõ nỗ lực cải cách hành chính, giảm chi phí không chính thức và tăng cường thiết chế pháp lý.
Trong khi đó, Hải Dương (cũ) có trên 20.000–21.000 doanh nghiệp đăng ký, đa số là doanh nghiệp nhỏ và vừa, với vốn đăng ký lũy kế hơn 240–250 nghìn tỷ đồng. Đáng chú ý, khu vực tư nhân tại đây chiếm tỷ trọng rất cao trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 72,5% GRDP và 18% thu ngân sách năm 2024. Năm 2024, GRDP tăng trưởng 10,2%, thu ngân sách vượt mốc 30,7 nghìn tỷ đồng và PCI xếp hạng 14 (tăng 3 bậc), thể hiện một môi trường kinh doanh năng động, nhiều tiềm năng.
Xét về ngành trụ cột, Hải Phòng nổi bật với cảng biển, logistics và điện tử – đặc biệt là cụm LG cùng hệ sinh thái vệ tinh. Trong khi đó, Hải Dương ghi dấu ấn với ô tô (Ford Hải Dương), cơ khí và chế biến chế tạo. Sự bổ sung này giúp “Hải Phòng mới” hình thành cấu trúc kinh tế đa dạng và có tính liên kết theo cụm ngành rõ nét, tạo lợi thế cạnh tranh trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Sau hợp nhất, sức bật của “Hải Phòng mới” đã thể hiện rõ. Sáu tháng đầu năm 2025, GRDP tăng 11,2%, trong đó công nghiệp tăng 12,84% và dịch vụ tăng 9,89%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt khoảng 179,9 nghìn tỷ đồng. Thu ngân sách 6 tháng đạt 96,8 nghìn tỷ đồng, với Hải Phòng (cũ) chiếm 77,3 nghìn tỷ và Hải Dương đóng góp 19,5 nghìn tỷ đồng. Đây là nền tảng tài chính – thị trường đủ mạnh để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của khu vực tư nhân.
Theo dự thảo kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 68, mục tiêu đến năm 2030 của “Hải Phòng mới” là có hơn 98.000 doanh nghiệp hoạt động, ít nhất 3 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; khu vực tư nhân tăng trưởng bình quân 14,5–15%/năm, đóng góp 43–45% GRDP, chiếm 60–62% việc làm, với năng suất lao động tăng 9,5–10%/năm. Hiện tại, tổng số doanh nghiệp đăng ký toàn vùng đạt khoảng 64–68 nghìn, trong đó số đang hoạt động ước tính 38–45 nghìn, cho thấy dư địa tăng trưởng còn lớn nếu chính sách hỗ trợ đi đúng hướng.
Để đạt được các mục tiêu này, “Hải Phòng mới” cần một chương trình hành động cụ thể, triển khai quyết liệt trong 18–24 tháng đầu. Trọng tâm gồm 10 trụ cột:
(1) Thể chế & PCI “Top 1 bền vững”: tiếp tục chuẩn hóa quy trình “một cửa số”, đo lường và giảm chi phí thời gian/chi phí không chính thức; công bố KPI xử lý thủ tục theo ngày làm việc; định kỳ đối thoại DN theo ngành/cụm.
(2) Chiến lược DN dẫn dắt + DN vừa “xương sống”: triển khai mục tiêu ≥3 DN lớn vào chuỗi toàn cầu đến 2030; mỗi năm chọn 200–300 DN vừa có tiềm năng để “ươm quy mô” (quản trị – vốn – thị trường).
(3) Liên kết FDI–Nội địa theo cụm:
Điện tử – vật liệu hiển thị quanh hệ sinh thái LG (Innotek/Display…) Chương trình “Supplier Day” thường niên, đặt chỉ tiêu nội địa hóa linh kiện cấp 2–3.
Ô tô – cơ khí neo vào Ford Hải Dương, chuẩn hóa nhà cung ứng theo IATF 16949/ISO 14001.
Logistics – cảng – kho bãi tận dụng Lạch Huyện/Deep C, tối ưu “last mile” đến Hải Dương. (bối cảnh logistics tăng doanh thu mạnh thời gian qua).
(4) Tài chính cho DN tư nhân: quỹ bảo lãnh tín dụng cấp thành phố; gói tín dụng xanh – chuyển đổi số; sàn “đặt hàng công – tư” để DN vừa/nhỏ tham gia chuỗi mua sắm công. (định hướng phù hợp NQ68 về tạo điều kiện tiếp cận vốn, công nghệ).
(5) Chuyển đổi số & dữ liệu: 100% DN vừa/nhỏ dùng hóa đơn điện tử nâng cao, chữ ký số từ xa, và ERP/CRM “lite”; chương trình “SME Data Ready” kết nối cơ sở dữ liệu đất đai, thuế, hải quan để giảm chi phí tuân thủ.
(6) Chuyển đổi xanh: nhãn xanh tự nguyện cấp địa phương, hỗ trợ kiểm kê phát thải – tiết kiệm năng lượng – kinh tế tuần hoàn trong KCN; điều kiện hóa ưu đãi đất đai/thuế địa phương với các chỉ số ESG. (định hướng NQ68: xanh – tuần hoàn).
(7) Nguồn nhân lực theo cụm ngành: liên minh “trường nghề – DN – FDI” cho cơ điện tử, vận hành kho/cảng, QA ô tô/điện tử; chỉ tiêu 30.000 lao động được cấp kỹ năng bậc trung cấp–cao đẳng/năm phục vụ 3 cụm trọng điểm.
(8) Bảo vệ thương mại & tuân thủ tiêu chuẩn: trung tâm hỗ trợ phòng vệ thương mại và tiêu chuẩn quốc tế (RoHS/REACH/ESG reporting) cho DN xuất khẩu.
(9) Thị trường & thương hiệu: xúc tiến thương mại theo “đơn hàng mẫu” cùng đối tác quốc tế; chương trình gắn nhãn “Made in Hai Phong New City” cho sản phẩm đạt tiêu chí kỹ thuật – xanh – số.
(10) Quản trị thực thi & dữ liệu mở: dashboard công khai mục tiêu 98.000 DN, tỷ lệ DN hoạt động thực, tỷ trọng KTTN/GRDP, năng suất lao động KTTN; rà soát 6 tháng/lần.
Với chương trình này, các chỉ tiêu ngắn hạn đến 2027 được kỳ vọng khả thi: số doanh nghiệp hoạt động đạt trên 45.000, tỷ trọng khu vực tư nhân/GRDP đạt 46–47%, năng suất lao động tăng ít nhất 8%/năm và có từ 150 doanh nghiệp địa phương đạt chuẩn quốc tế để tham gia chuỗi cung ứng của LG, Ford và các tập đoàn FDI trụ cột.
Sự ra đời của “Hải Phòng mới” đã tạo ra một thực thể kinh tế – hành chính với tiềm lực mạnh mẽ, kết hợp lợi thế cảng biển, logistics, điện tử của Hải Phòng với công nghiệp ô tô, cơ khí và chế biến chế tạo của Hải Dương. Khu vực doanh nghiệp tư nhân – vốn đã là động lực quan trọng tại cả hai địa phương – nay đứng trước cơ hội mở rộng quy mô, nâng cao năng suất và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành hiện thực, cần một lộ trình hành động rõ ràng, minh bạch và gắn trách nhiệm cụ thể. Nếu triển khai hiệu quả chương trình 10 trụ cột và cơ chế giám sát công khai, “Hải Phòng mới” không chỉ trở thành trung tâm phát triển kinh tế tư nhân hàng đầu miền Bắc, mà còn đóng góp quan trọng vào mục tiêu quốc gia về một nền kinh tế tự chủ, xanh và bền vững.
GS.TS, LS, Doanh nhân Phạm Hồng Điệp
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/buc-tranh-doanh-nghiep-tu-nhan-hai-phong-truoc-va-sau-sap-nhap-101521.html