CTCP Thép Pomina (POM) từng là một trong những doanh nghiệp thép lớn của Việt Nam đang trải qua giai đoạn suy giảm kéo dài. Báo cáo tài chính quý III/2025 cho thấy tình hình kinh doanh vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt, trong khi áp lực tài chính ngày càng gia tăng.
Trong quý III, doanh thu thuần đạt hơn 200 tỷ đồng, giảm 58% so với cùng kỳ. Công ty đạt lãi gộp trở lại, tuy nhiên gánh nặng chi phí tài chính vẫn rất lớn, với chi phí lãi vay lên tới 160 tỷ đồng. Kết quả, Pomina lỗ ròng hơn 180 tỷ đồng.
Doanh thu và lợi nhuận các "ông lớn" ngành thép còn nhiều vấn đề cốt lõi.
Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần gần 1.700 tỷ đồng, tăng khoảng 7% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, chi phí tài chính hơn 500 tỷ đồng khiến công ty lỗ ròng 512 tỷ đồng.
Đến cuối tháng 9/2025, tổng tài sản ngắn hạn của Pomina đạt khoảng 1.730 tỷ đồng, trong đó tiền mặt chỉ còn 22 tỷ đồng, còn lại chủ yếu là khoản phải thu và hàng tồn kho. Chiều ngược lại, nợ ngắn hạn vượt 8.500 tỷ đồng, bao gồm hơn 5.200 tỷ đồng vay và nợ thuê tài chính ngắn hạn.
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp đã âm gần 187 tỷ đồng, cho thấy tình hình tài chính đang ở mức báo động.
Một ông lớn khác trong ngành là Thép Nam Kim (NKG) cũng đang kinh doanh “kém sắc”, khi báo cáo tài chính hợp nhất quý III/2025 cho thấy lợi nhuận suy giảm đáng kể do nhu cầu thị trường thu hẹp trong khi chi phí đầu vào không giảm tương ứng.
Trong kỳ, doanh thu thuần đạt 3.789 tỷ đồng, giảm 27% so với cùng kỳ và giảm 9,9% so với quý II/2025.
Khấu trừ chi phí, lợi nhuận sau thuế hợp nhất quý III đạt hơn 49,5 tỷ đồng, giảm 23,6% so với cùng kỳ.
Lũy kế trong 9 tháng, doanh thu đạt 11.671 tỷ đồng, giảm 27,7% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế đạt 206,5 tỷ đồng, giảm 52,5% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 30/9/2025, tổng tài sản của doanh nghiệp đạt 16.473 tỷ đồng, tăng gần 3.000 tỷ đồng so với đầu năm, chủ yếu do chi phí đầu tư dở dang tại dự án nhà máy thép. Tiền và tương đương tiền giảm gần 50 tỷ đồng, còn 348 tỷ đồng. Áp lực nợ vay ngắn hạn giảm khi dư nợ ngắn hạn giảm từ hơn 6.300 tỷ đồng xuống hơn 4.900 tỷ đồng, trong khi vay dài hạn xuất hiện số dư gần 2.050 tỷ đồng.
Với CTCP Tập đoàn Hoa Sen (HSG), theo báo cáo tài chính hợp nhất quý IV niên độ 2024 - 2025 (từ 1/7/2025 đến 30/9/2025), doanh thu thuần đạt 8.357 tỷ đồng, giảm 17% so với cùng kỳ.
Sau khi khấu trừ chi phí, Hoa Sen đạt gần 85 tỷ đồng lãi sau thuế, cải thiện mạnh so với mức lỗ 176 tỷ đồng niên độ trước. Lũy kế kỳ này (từ 1/10/2024 đến 30/9/2025), Hoa Sen đạt 36.537 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm 7%. Lợi nhuận sau thuế đạt 732 tỷ đồng, tăng 42%.
Niên độ 2024 - 2025, Hoa Sen đặt ra 2 kịch bản kinh doanh. Trong kịch bản cơ sở, doanh thu thuần dự kiến đạt 35.000 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế hợp nhất 400 tỷ đồng. Trong kịch bản khả quan, doanh thu thuần dự kiến đạt 38.000 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế hợp nhất 500 tỷ đồng.
Như vậy, tập đoàn này không hoàn thành kế hoạch doanh thu theo kịch bản khả quan, còn lợi nhuận sau thuế vượt 46% kế hoạch năm.
Về tình hình tài chính, tại ngày 30/9/2025, Hoa Sen có gần 19.000 tỷ đồng tổng tài sản, giảm hơn 600 tỷ đồng so với đầu niên độ tài chính. Trong đó, giá trị hàng tồn kho chiếm một nửa tài sản, lên tới gần 8.200 tỷ đồng, giảm hơn 1.500 tỷ đồng.
Còn “anh cả” Hòa Phát (HPG) ghi nhận doanh thu quý III đạt 36.794 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế đạt 4.012 tỷ đồng, tăng 33%.
Lũy kế 9 tháng, tập đoàn đạt 111.031 tỷ đồng doanh thu và 11.626 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, lần lượt tăng 5% và 26% so với cùng kỳ.
Báo cáo tài chính quý III cho thấy dư nợ vay tài chính tăng mạnh, lên mức kỷ lục 96.838 tỷ đồng tại ngày 30/9, tăng 17% so với đầu năm và đánh dấu quý thứ 5 liên tiếp tăng nợ vay. Trong đó, nợ ngắn hạn chiếm 68.482 tỷ đồng và nợ dài hạn 28.356 tỷ đồng, đều ở mức cao nhất từ trước đến nay.
Chi phí tài chính trong quý III đạt gần 1.100 tỷ đồng, tăng gần 10% so với quý trước và tăng 29% so với cùng kỳ. Trong đó, chi phí lãi vay chiếm hơn 800 tỷ đồng, tăng 55% so với cùng kỳ và gần gấp đôi so với quý trước. Tỷ trọng chi phí lãi vay tăng do Hòa Phát đã dừng vốn hóa sau khi phân kỳ đầu tiên của Dung Quất 2 đi vào hoạt động.
Đánh giá về tiềm năng của doanh nghiệp ngành thép, bà Trần Thị Thùy Dung, Trưởng phòng Tư vấn Chứng khoán Mirae Asset cho rằng, nhu cầu thép toàn cầu đang phục hồi ở mức khiêm tốn, khoảng 1-2% mỗi năm, với đóng góp lớn từ khu vực xây dựng và kỹ thuật cơ khí.
Hiện, ngành thép Việt Nam dự kiến hưởng lợi từ đầu tư công và bất động sản nội địa hồi phục nhưng vẫn phải đối mặt với cạnh tranh từ Trung Quốc cũng như các rào cản phòng vệ thương mại ở thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, xu hướng chuyển đổi xanh và nâng cao tiêu chuẩn môi trường sẽ trở thành yếu tố quyết định thành công trong dài hạn, đòi hỏi năng lực công nghệ và chi phí vốn cao hơn nhưng có thể mở ra cơ hội xuất khẩu vào các thị trường cao cấp và bền vững.
Bà Dung cũng cho rằng, ngành thép cũng có nhiều thách thức. Điển hình như việc thặng dư công suất ở một số phân khúc (tôn mạ, ống thép) có thể gặp áp lực biên lợi nhuận nếu tiêu thụ nội địa không tương xứng với sản lượng.
Bên cạnh đó, biến động giá nguyên liệu (quặng sắt, than, năng lượng) và tỷ giá có thể ảnh hưởng nhanh đến chi phí sản xuất và lợi nhuận.
Ngoài ra, pháp lý và chính sách thương mại quốc tế thay đổi liên tục sẽ đòi hỏi sự thích ứng nhanh của doanh nghiệp và mức độ rủi ro cao hơn đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Châu Giang