Bước chuyển mình của kinh tế Việt Nam sau năm 1975

Bước chuyển mình của kinh tế Việt Nam sau năm 1975
9 giờ trướcBài gốc
Nhớ thời “cả nước làm không đủ ăn”
Nhìn lại tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1975-1985, GS. TSKH Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác đầu tư (SCCI), nguyên thành viên Tổ công tác chống lạm phát, cho biết ở giai đoạn đoạn này, bản đồ kinh tế Việt Nam được thiết kế dựa trên sức mạnh bổ sung từ điều kiện kinh doanh của miền Nam và những ưu thế hiện có về điều kiện tự nhiên của miền Bắc.
Thế nhưng, hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ không thuận lợi, cơ chế kế hoạch hóa tập trung khiến kinh tế Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng. Hơn nữa, Mỹ và nhiều quốc gia châu Âu lại cấm vận kinh tế với Việt Nam. Trong nước, chiến lược phát triển kinh tế dựa trên cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp dẫn đến tình trạng nền kinh tế chỉ có hai thành phần quốc doanh và tập thể trong khi kinh tế tư nhân không được phát triển, thị trường không được công nhận…
Khung cảnh một nhà máy của Việt Nam thời bao cấp. Ảnh: TTXVN
Tất cả đã làm thui chột động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. “Có thể nói là cả nước làm không đủ ăn!”, ông Mại nói.
Cũng theo chuyên gia này, giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng nhất là các năm 1983, 1984, 1985 khi lạm phát bị đẩy lên khoảng 700-800%, tem phiếu phân phối thiếu thốn, người dân không đủ lương thực. Ngoài ra, các mặt hàng dân dụng phụ thuộc lớn gồm xăng dầu, lương thực, bột mì, bông xơ phục vụ ngành dệt, phân bón đều dựa vào viện trợ từ Liên Xô. Tuy nhiên, lượng viện trợ giảm dần khiến kinh tế đất nước gần như kiệt quệ.
Trong một lần xuất hiện trước công chúng năm 2017, cố Phó phủ tướng Vũ Khoan từng kể lại câu chuyện của gia đình vào năm 1986, khi chỉ số lạm phát là 784%/năm. “Trong thời gian đi học, hai vợ chồng tôi tích lũy được một số tiền học phí, mua được một chiếc xe đạp của Tiệp Khắc. Lúc kết thúc công tác tại đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô trở về nước, hai vợ chồng tôi đã bán chiếc xe đạp đó đi lấy một số tiền gửi tiết kiệm. Nhưng không ngờ tới khi Nhà nước tiến hành đổi tiền - một trong những biện pháp nhằm chữa lạm phát, số tiền tiết kiệm từ bán xe đạp chỉ mua được 10 quả trứng, lúc đó tôi thực sự hiểu thế nào là lạm phát”, ông Vũ Khoan nói.
Trước những khó khăn của đất nước, ông Nguyễn Cơ Thạch, thời điểm đó là Tổ trưởng Tổ Tài chính - Tiền tệ thuộc Ban Chống lạm phát của Bộ chính trị, đã cử ông Khoan sang một số quốc gia như Liên Xô, Hungary, Áo học tập kinh nghiệm chống lạm phát để áp dụng những điều được học, góp phần xử lý lạm phát ở Việt Nam.
“Mình học được những kiến thức, kinh nghiệm của thế giới rồi nhưng phải biết cách vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Về nước, chúng tôi được yêu cầu phải xuống các hợp tác xã, nhà máy, phiên chợ để tìm hiểu xem lạm phát biểu hiện như thế nào ở mỗi vùng, miền, địa phương? Ứng dụng kinh nghiệm của thế giới ra sao?”, ông Vũ Khoan nói tại sự kiện vừa kể trên.
Bước chuyển mình thu hút đầu tư, giải phóng nguồn lực
Sau đợt cải cách vào tháng 8-1985 (thường được gọi là Cả i cách Giá - Lương - Tiền), ba phần việc được thực hiện cùng lúc là thay đổi giá cả hàng hóa, thay đổi chế độ tiền lương, đổi tiền đã không mang lại kết quả tích cực. Bước sang năm 1986, Đảng và Chính phủ đã nhận ra, không thể tiến hành cải cách cục bộ trong khi không thay đổi cơ chế quản lý kinh tế. Từ đây, Việt Nam có đường lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và mở cửa hội nhập quốc tế.
Đến tháng 12-1986, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra công cuộc đổi mới trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Thực chất, vào năm này, cuộc đổi mới kinh tế mới chỉ đặt ra những nguyên tắc cơ bản, những phương hướng chủ yếu, chưa phải là thiết kế chi tiết những hệ thống và chính sách, cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm nền kinh tế vận hành hiệu quả.
Tuy nhiên, điều đáng nhớ nhất tại Đại hội VI, theo GS. TSKH Nguyễn Mại là Đảng xác định, phải đổi mới từ tư duy đến hành động, sao cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thế là, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời sau Đại hội Đảng lần thứ VI khoảng một năm, vào ngày 29-12-1987, là văn bản luật đầu tiên thể hiện chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế của Việt Nam. Ngay khi ra đời, luật này được đánh giá là cởi mở nhất khu vực lúc đó bởi so sánh với các quốc gia xung quanh trong khu vực, chỉ Việt Nam cho phép hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào nội địa.
Tiếp đó, sự kiện đánh dấu cho một giai đoạn đổi mới thành công là những tấn gạo đầu tiên xuất khẩu giai đoạn cuối năm 1989 - đầu năm 1990. Đây là thời điểm thế giới bắt đầu để ý đến Việt Nam, từ một quốc gia đói kém đã trở thành nước xuất khẩu gạo, liên tục cho đến hiện tại.
GS. Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới, cho biết tình hình mới xuất hiện vào năm 1989, thời điểm lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức khoảng 9%/tháng. Để giải quyết khó khăn, nhiều cơ quan cả trong và ngoài nước đã đưa ra hơn 40 đề án chống lạm phát. Thậm chí, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) còn đưa ra sáng kiến cho Việt Nam vay 2 tỉ đô la Mỹ để chống lạm phát. Tuy nhiên, ông Đỗ Mười, khi đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chưa tán thành bất kỳ đề án nào.
“Lãi suất gửi tiết kiệm chỉ 2-3% nên người dân không gửi tiền mà tích trữ hàng hóa như săm, lốp xe đạp… buộc ngân hàng phải in tiền, dẫn tới lạm phát. Vì vậy, tôi kiến nghị ba giải pháp: nâng lãi suất thực dương lên 12%, tự do hóa kinh tế để người dân tự do làm ăn buôn bán và mở cửa với thế giới bên ngoài”, ông Lược nhớ lại.
Dù bị nhiều chuyên gia phản đối nhưng giải pháp “lãi suất thực dương” vẫn được phép thí điểm ở Hải Phòng. Sau một tháng triển khai, thấy người dân bán hết hàng tích trữ để lấy tiền gửi ngân hàng, giá cả hạ nhiệt, hàng hóa được lưu thông… ông Đỗ Mười đã cho phép áp dụng giải pháp này trên quy mô toàn quốc, rồi ban hành chỉ thị tăng lãi suất trên cả nước.
“Kết quả, lạm phát giảm từ 9%/tháng xuống mức rất thấp thậm chí có tháng âm”, ông Lược nói.
Sau khi chống lạm phát thành công, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã yêu cầu GS. Võ Đại Lược chuẩn bị bản báo cáo để ông trình bày với Bộ Chính trị.
Trong bản báo cáo này, GS. Võ Đại Lược cũng nêu thực trạng quốc doanh ở Việt Nam chiếm đến 90% GDP, kinh tế hộ gia đình chỉ có 5% GDP. Từ đó, ông đề nghị thu hẹp tỷ trọng xí nghiệp quốc doanh xuống còn 30%. Quá trình “cổ phần hóa” bắt đầu từ đây.
Thông điệp gửi tương lai
Trải qua nhiều khó khăn, Việt Nam vẫn vững vàng vượt qua để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm để hoàn thành mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
“Nếu như 30 năm đầu tiên sau cuộc chiến, chúng ta có thể giải thích đất nước chưa phát triển như kỳ vọng là do hệ quả chiến tranh thì 30 năm tiếp đó, chúng ta không thể đổ lỗi cho bất kỳ điều gì”, GS. Nguyễn Mại nói.
Theo ông Mại, nguyên nhân chính dẫn đến Việt Nam mất nhiều thời gian mà vẫn chưa đạt được thành tựu kinh tế tương tự các quốc gia khác là do thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam chưa phải làm tốt nhất. Tuy định kiến với những người làm giàu và hoạt động kinh tế tư nhân không còn nữa nhưng yếu tố quan trọng nhất là quan hệ giữa Nhà nước và thị trường vẫn cần được cải thiện. Trong đó, Nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng cho thị trường phát triển.
“Phải xây dựng hành lang pháp lý, chứ không phải xây dựng ‘một đoạn đường sắt để con tàu chạy trên hai đường ray’. Hiện nay, khiếm khuyết lớn nhất là thể chế chưa hoàn chỉnh, quy định nọ ‘đá’ quy định kia. Việc thực thi thể chế còn khó khăn hơn, Thủ tướng liên tục chỉ đạo nhưng doanh nghiệp vẫn ‘kêu’ rất nhiều”, ông Mại nói.
Theo chuyên gia này, ưu tiên hàng đầu lúc này là hoàn thiện thể chế và thực thi thể chế trong bối cảnh nhiều chỉ số về năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam còn thấp.
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, bổ sung thêm, trong tầm nhìn 2045, Việt Nam cần phát triển hệ thống giao thông, năng lượng và công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, kết nối trong và ngoài nước. Đặc biệt, Chính phủ cần đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong mọi lĩnh vực kinh tế. Cùng với đó, việc xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp mạnh mẽ, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế cũng cần được đẩy mạnh.
“Chúng ta cần tập trung vào giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Định hướng phát triển cần chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, tăng cường hợp tác giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp nhằm đảm bảo nguồn nhân lực phù hợp với thị trường lao động”, ông Lạng chia sẻ.
Đồng quan điểm, GS. Nguyễn Mại cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội để Việt Nam vươn mình nhờ công nghệ mới. Với các công nghệ blockchain, fintech, Việt Nam chỉ đi sau các quốc gia một vài năm còn việc triển khai hệ thống mạng 5G, đất nước cũng đang có cơ hội đi sớm hơn. Vì vậy, cơ quan quản lý cần tranh thủ điều kiện từ nguồn nhân lực chất lượng cao, từ những quyết tâm xây dựng những thành phố thông minh, chính quyền điện tử… để rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Hoàng Thắng
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/buoc-chuyen-minh-cua-kinh-te-viet-nam-sau-nam-1975/