1. Giới thiệu về Thiền sư Pháp Chuyên - Luật Truyền - Diệu Nghiêm
Ngài không chỉ là bậc tu hành đạo hạnh, chứng ngộ, mà còn là một học giả uyên thâm, một nhà thơ và một tác gia lớn của văn học Việt Nam nói chung và văn học Phật giáo nói riêng vào thế kỷ XVIII. Những đóng góp của ngài cho sự phát triển của văn học Phật giáo Việt Nam là vô cùng to lớn và có giá trị lâu dài.
Ngài sinh năm 1726 tại làng Cổ Tháp, xã Hoa Châu, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam. Từ thuở nhỏ, ngài đã được tiếp cận, học tập và nghiên cứu sâu rộng về Tam giáo (Nho - Phật - Lão), sớm tỏ ngộ được những giáo lý cốt lõi trong nhà Phật. Năm 18 tuổi, ngài thi đỗ và ra làm quan dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát. Tuy nhiên, do thấu hiểu được lẽ thịnh suy, biến hóa vô thường của cuộc đời, ngài đã phát tâm xuất gia với chí nguyện “phát túc siêu phương, tâm hình dị tục”, rời bỏ thế tục để tìm cầu chân lý giác ngộ.
Ngài tham cầu học đạo với Tổ Thiệt Dinh - Ân Triêm và trở thành đệ tử thuộc đời thứ 36 của dòng thiền Lâm Tế, thuộc thế hệ thứ 3 của phái Lâm Tế Chúc Thánh. Suốt cuộc đời tu hành, Thiền sư Pháp Chuyên không chỉ chuyên tâm thiền tập, nghiên cứu kinh điển và hoằng dương Phật pháp, mà còn thể hiện tinh thần nhập thế, phụng sự đất nước theo lý tưởng Bồ-tát đạo hướng đến lý tưởng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Ngài đã để lại nhiều tác phẩm văn học - thi ca - Phật học có giá trị, không chỉ phản ánh tiến trình lịch sử dân tộc mà còn truyền tải sâu sắc triết lý Phật giáo đến các tầng lớp sĩ phu Nho học, giới trí thức và quảng đại quần chúng. Những trước tác của ngài góp phần phát huy tinh thần yêu nước, thương dân, đồng thời khẳng định vai trò tích cực và chân chính của Phật giáo trong đời sống xã hội, bác bỏ những hiểu lầm và thành kiến sai lệch về giáo lý đạo Phật.
Những tác phẩm của Thiền sư Pháp Chuyên trước tác và ký lục hiện được tìm thấy khoảng hơn 20 tác phẩm: 1. Diệu Nghiêm lão tổ thi tập; 2. Tam bảo biện hoặc luận; 3. Chiết nghi luận tái trị; 4. Thiện ác quy cảnh lục; 5. Tam bảo cố sự; 6. Báo ân kinh chú giải; 7. Địa Tạng kinh yếu giải; 8. Quy nguyên trực chỉ âm nghĩa; 9. Tỳ-ni, Sa-di, Oai nghi, Cảnh sách âm chú yếu lược; 10. Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú; 11. Sa-di luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ấn; 12. Quy Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên; 13. Nhãn sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên; 14. A Di Đà sớ sao sự nghĩa; 15. Tam giáo pháp số; 16. Tam giáo danh nghĩa; 17. Chư kinh sám nghi; 18. Hoằng giới đại học chi thư; 19. Chính truyền nhất chi(1); 20. Xuất gia yếu tập; 21. Phương tiện chú giải; 22. Địa Tạng chú giải; 23. Tam tạng mục lục(2).
Trong đó, tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục được ngài Pháp Chuyên Diệu Nghiệm biên soạn theo lối trích lục và được ngài Liễu Tạng đề tựa. Về sau, tác phẩm này được Hòa thượng Khánh Anh sao lục lại.
Bảo tháp Tổ Pháp Chuyên Diệu Nghiêm - chùa Từ Quang, Phú Yên (cũ) nay là tỉnh Đắk Lắk
2. Giới thiệu về ngài Liễu Tạng
Thiền sư Liễu Tạng, hiện nay vẫn chưa xác định rõ năm sinh và năm viên tịch của ngài. Ngài là người viết lời tựa cho tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục, tuy nhiên thông tin về cuộc đời và hành trạng của ngài còn rất ít ỏi. Qua quá trình khảo cứu, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy tài liệu chuyên biệt nào viết riêng về ngài.
Tuy vậy, gần đây, nhờ nhân duyên tiếp cận một số văn bản cổ được thư viện Huệ Quang khảo sát, trong đó có tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục, chúng tôi đã lần ra một vài dấu vết liên quan đến ngài. Cụ thể, trong bộ mộc bản A Di Đà kinh sớ sao khắc năm 1838, hiện đang được lưu giữ tại tổ đình Thập Tháp (Bình Định), có ghi rõ rằng: Ngài Liễu Tạng, pháp húy Chương Bảo, là đệ tử của Hòa thượng Toàn Tín - Đức Thành ở chùa Khánh Lâm, tỉnh Bình Định, thuộc dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh.
Chính trong quá trình tìm hiểu về tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục, chúng tôi nhận thấy bài tựa của tác phẩm này được viết bởi chính ngài, với bút danh Liễu Tạng kính bút. Đây là tư liệu quan trọng, góp phần làm rõ thêm vai trò của ngài trong hoạt động biên tập và truyền bá kinh điển Phật giáo ở miền Trung Việt Nam trong thế kỷ XIX.
Ngoài lời tựa nói trên, ngài còn để lại nhiều tác phẩm khác, như: Trùng tử Truy môn cảnh huấn bạt, viết vào năm đầu triều Tự Đức (1848); Thiền môn chánh độ cố linh sơ chung khoa tựa, viết vào năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), cùng một số văn bản khác chưa được sưu tập đầy đủ. Những lời tựa và bạt của ngài góp phần đáng kể trong việc minh giải ý nghĩa các nghi thức và kinh điển Phật giáo, đồng thời phản ánh trình độ học vấn, tư duy mạch lạc và tinh thần hộ pháp của một vị Tăng sĩ thời bấy giờ.
3. Giới thiệu về Hòa thượng Khánh Anh
Hòa thượng Khánh Anh (1895-1961), thế danh Võ Hóa, sinh tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 21 tuổi, ngài xuất gia với Hòa thượng Ấn Tịnh, tự Kim Liên, hiệu Hoằng Thanh tại chùa Cảnh Tiên, Quảng Ngãi. Ngài được ban pháp danh là Chơn Quý, pháp tự Đạo Trân.
Năm 1920, khi 26 tuổi, Hòa thượng Khánh Anh thọ Đại giới Tỷ-kheo tại chùa Sắc tứ Phước Quang dưới sự chứng minh của Hòa thượng Hoằng Tịnh làm Đường đầu Hòa thượng. Năm 1921, ngài được ban pháp hiệu là Khánh Anh, thuộc đời thứ 40 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 7 của truyền phái Chúc Thánh.
Nhờ sự uyên thâm Phật học và đức hạnh cao viễn, Hòa thượng Khánh Anh được mời giảng dạy, hoằng pháp ở nhiều nơi, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong các tổ chức Phật giáo: Thượng thủ Giáo hội Tăng-già Toàn quốc (1959), Pháp chủ Giáo hội Tăng-già Nam Việt (1957), Chứng minh Đạo sư Hội Phật học Nam Việt (1955) Pháp sư Hội Lưỡng Xuyên Phật học Trà Vinh (1935), giáo sư Trường Gia giáo chùa Giác Hoa - Bạc Liêu (1927), trụ trì các chùa Long An (1931), Phước Hậu (1942), Trà Ôn - Vĩnh Long(3).
Ngày 30 tháng Giêng năm Tân Sửu, ngài viên tịch tại chùa Long An. Trong suốt cuộc đời tu hành, Hòa thượng Khánh Anh vừa tùy duyên nhập thế, vừa ẩn cư nghiên cứu, để lại những thành tựu to lớn. Ngài không chỉ là một tấm gương sáng cho hậu học và Phật tử noi theo, mà còn là một nhà tư tưởng, một tác gia Phật giáo có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Với phẩm chất xuất chúng, ngài đã giáo dưỡng nên những thế hệ đệ tử ưu tú, tiếp nối đạo nghiệp. Đệ tử tiêu biểu của ngài có Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Hòa thượng Thích Hoàn Quan… Đời cháu có những vị nổi bật như Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Phước Cẩn… Tất cả đều mang hạnh nguyện và lý tưởng hoằng pháp lợi sinh của Hòa thượng Khánh Anh làm kim chỉ nam cho sự tu học và hành đạo của mình.
Thành quả trước tác biên soạn và phiên dịch của ngài Khánh Anh có rất nhiều, cụ thể như sau:
Trước tác biên soạn: 1. Khánh Anh văn sao, 4 tập; 2. Phật hóa gia đình.
Phiên dịch: 1. Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật; 2. Kinh Di Đà và Phổ môn diễn nghĩa; 3. Báo ân phẩm; 4. Quy sơn cảnh sách cú thích ký; 5. Sa-di luật nghi yếu lược tăng chú; 6. Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu hương nhũ ký; 7. Tại gia cư sĩ luật; 8. Duy thức tam thập tụng; 9. Duy thức triết học; 10. Bát thức quy củ tụng; 11. Nguyên nhân luận; 12. Nhị khóa hiệp giải; 13. Quy nguyên trực chỉ (3 quyển); 14. Hai mươi lăm bài thuyết pháp; 15. Phật giáo vấn đáp.
Các tác phẩm Hán - Nôm: 1. Thiện ác quy cảnh lục, (sao lục tác phẩm Tổ Pháp Chuyên); 2. Tam bảo biện hoặc tập, (sao lục tác phẩm tổ Pháp Chuyên); 3. Tỳ-ni sa-di uy nghi cảnh sách âm chú yếu lược, (sao lục tác phẩm Tổ Pháp Chuyên); 4. Giác Hoa tự khai gia giáo trường; 5. Thích thị nguyên lưu; 6. Ngũ gia tông phái ký - Phật pháp lưu Nam Việt; 7. Kim cang Xuyên thiền sư niệm tụng, trị phụ chú thượng, hạ(4).
4. Giới thuyết văn bản Thiện ác quy cảnh lục
Hiện nay, bản gốc do Thiền sư Pháp Chuyên thủ bút vẫn chưa xác định được chính xác. Tuy nhiên, bản sao chép của Hòa thượng Khánh Anh hiện còn được lưu giữ tại tổ đình Phước Hậu (Trà Ôn, Vĩnh Long), và một bản sao khác được bảo quản tại Thư viện Huệ Quang với mã số lưu trữ 554, khổ sách 15.5x29.0cm. Văn bản này đã được in lại trên ba loại giấy khác nhau: giấy dó, giấy thường kiểu Trung Quốc, và giấy thường kiểu Việt Nam. Bản chúng tôi khảo sát là bản giấy thường kiểu Việt.
Cấu trúc sách như sau: Trang đầu là tờ lót trắng; trang thứ hai in tiêu đề “Huệ Quang Phật điển tùng san”, với tên tác phẩm đặt bên mép phải và tên người chép (thuộc Huệ Quang Phật điển tùng san) cùng dấu ấn in ở mép trái. Trang thứ ba in tiêu đề chính Thiện ác quy cảnh lục, phía mép phải ghi tên tác giả, bên mép trái là năm khắc bản và nơi tàng bản. Văn bản gồm tổng cộng 68 trang, mỗi trang in hai mặt, mỗi mặt có 7 dòng, mỗi dòng khoảng 30 chữ Hán.
Mở đầu sách là bài tựa mang tên Thiện ác quy cảnh tự, do ngài Liễu Tạng soạn vào ngày Phật đản sinh, tháng 4 âm lịch, năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Bài tựa không những nêu bật mục đích biên soạn của tác phẩm mà còn tán dương công đức của Thiền sư Pháp Chuyên đối với Phật pháp và xã hội đương thời.
Văn bản hiện hành là bản sao do Hòa thượng Khánh Anh thực hiện vào “Khải Định Chiên Mông Xích Phấn Nhược chi tuế, nhuận tứ nguyệt”, tức tháng 4 nhuận, năm Ất Sửu triều Khải Định (1925), tại chùa Quang Lộc, tỉnh Quảng Ngãi.
Nội dung Thiện ác quy cảnh lục do Tổ Pháp Chuyên Diệu Nghiêm trích lục và biên tập, gồm tổng cộng 55 đề mục, tương ứng với 55 mẫu chuyện nhân quả về thiện và ác. Mặc dù tác phẩm không chia chương mục rõ ràng, nhưng qua cấu trúc trình bày, khoảng cách giữa các đoạn, tiêu đề đề mục và nội dung sẽ có thể phân định được từng mẫu chuyện một cách tách biệt. Chúng tôi đã dựa vào những đặc điểm này để thống kê, biên soạn lại danh mục tổng hợp 55 câu chuyện.
Thông qua các mẫu chuyện nhân quả, Tổ Pháp Chuyên muốn truyền tải thông điệp sống mang tính giáo hóa: khuyến thiện trừ ác, xây dựng nhân cách đạo đức và lý tưởng sống hướng thiện. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, khi nhân tâm ly tán, khổ não lan tràn, việc ghi chép lại những mẫu chuyện nhân quả từ kinh điển vào thực tiễn đời sống nhằm mục đích cảnh tỉnh những kẻ phàm phu mê muội, và thức tỉnh bản tâm con người.
Cho đến hiện nay, khi xã hội vẫn còn đối diện với những vấn đề về đạo đức, ranh giới thiện ác không rõ ràng, thì giá trị của tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục qua công biên tập của Thiền sư Pháp Chuyên và công phu sao lục của Hòa thượng Khánh Anh càng trở nên thiết thực và đáng quý. Xuất phát từ nhận thức ấy, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm đến với toàn thể độc giả hữu duyên. Sau đây là bảng thống kê 55 mẫu chuyện nhân quả trong Thiện ác quy cảnh lục do Thiền sư Pháp Chuyên trích lục.
5. Giới thiệu bài tựa Thiện ác quy cảnh lục
Thiện ác quy cảnh lục tự được ngài Liễu Triệt soạn vào ngày Phật đản, năm Minh Mạng thứ 14 (1833). Bài tựa gồm 267 chữ, tính cả tiêu đề, là một bản văn hàm súc thể hiện tư tưởng sâu xa về bản tánh chúng sinh và sự tán dương công hạnh của Tổ sư Pháp Chuyên trong quá trình biên tập và hoàn thành tác phẩm.
Ngài Liễu Tạng mở đầu bằng quan niệm: bản tánh của chúng sinh vốn trong sáng, thanh tịnh, không hề bị nhiễm ô. Nhưng vì một niệm vô minh khởi lên ban đầu, bị lôi cuốn theo cảnh dục trần, vọng tưởng dấy khởi, nên dần xa rời tánh giác. Chính vì thế, ba cõi sáu đường trở nên rối loạn, sinh tử luân hồi triền miên không dứt. Thánh hiền ba giáo từ bi thương xót, liền dùng quyền xảo phương tiện, dẫn dắt chúng sinh thoát khổ được vui, trừ mê khai ngộ, quay về với bản tánh chân thường vốn sẵn nơi mình.
Trong phần tiếp theo, ngài Liễu Tạng tán dương công hạnh của Tổ Pháp Chuyên. Dù sống giữa thời thế đảo điên, loạn lạc, ngài vẫn ung dung tự tại, không lay động trước phong trần. Ẩn cư nơi hang cốc, lấy rau rừng làm thực phẩm, dùng nước suối làm nguồn sống, sống đời kham khổ nhưng luôn quên thân vì đạo, một lòng giữ gìn và truyền lưu mạng mạch Phật pháp. Với sở học uyên thâm, công phu miên mật, ngài đã dày công khảo cứu ba giáo, chín lưu, tham cứu Đại tạng, chắt lọc tinh yếu để biên soạn thành những trước tác hữu ích cho đời sau.
Tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục chính là kết tinh của công phu ấy, được trích lục từ nhiều kinh điển, nhằm chỉ bày nhân quả, tội phước, dẫn dắt chúng sinh thức tỉnh quay về. Ngài Liễu Tạng xem tác phẩm này như ngọn đuốc trí tuệ soi đường, như con thuyền từ bi đưa người vượt qua biển khổ sinh tử, trở về bến giác an vui.
Chính vì cảm nhận được tâm nguyện sâu xa, chí nguyện hoằng pháp lợi sinh cao cả của ngài Liễu Tạng, chúng tôi xin được phiên dịch và giới thiệu bài tựa này đến với đại chúng, như một lời dẫn nhập đầy ý nghĩa cho tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục - một bản trích lục quý báu của Thiền sư Pháp Chuyên.
Nguyên văn:
善惡亀鏡序
夫天明(5)之性,從來體自如如(6) , 般若(7)之心,湛然未曾生滅,既無生滅之性,何有罪福之名者乎? 由眾生最初一念妄想無明,隨塵欲境之遷,背覺性明之善. 是以四生(8)擾擾, 三界(9)忙忙, 累劫循塵,無由解脫. 是故,三教聖人婆心愍物, 隱寔施(10), 不已雲頭指月. 誘誨羣生,若能反照廻光(11),全是明心天性,如此者何有罪福因果三界六道之假名乎? 茲竊惟:
慈光老祖(12),誕臨季運(13), 風塵忽翳, 迷天混俗, 和光世界變為餓鬼,穴居野處,天蓋地氈,飢則茹菜㠯充膓, 渴則清泉而潤口,艱辛苦屈,爲法忘軀,研窮三教九流, 歴盡百家諸子, 述古今之善惡,究歷劫之果因,寓毛著輯,數篇目為善惡龜鏡. 此則成將來之慧炬,引眾向明堂,偉哉,真苦海之慈航,濟人登彼岸者耳.
旹明命,十四秊仲呂佛誕日.
釋了藏稽首讚述.
Phiên âm:
Thiện ác quy cảnh tự
Phù thiên minh chi tánh, tùng lai thể tự như như, Bát-nhã chi tâm, trạm nhiên vị tằng sanh diệt, ký vô sanh diệt chi tánh, hà hữu tội phước chi danh giả hồ? Do chúng sanh tối sơ nhất niệm vọng tưởng vô minh, tùy trần dục cảnh chi thiên, bội giác tánh minh chi thiện. Thị dĩ tứ sanh nhiễu nhiễu, tam giới mang mang, lụy kiếp tuần trần, vô do giải thoát. Thị cố, Tam giáo Thánh nhân bà tâm mẫn vật, ẩn thực thi quyền, bất dĩ vân đầu chỉ nguyệt. Dụ hối quần sanh, nhược năng phản chiếu hồi quang, toàn thị minh tâm thiên tánh, như thử giả hà hữu tội phước nhân quả tam giới lục đạo chi giả danh hồ? Tư thiết duy:
Từ Quang lão tổ, đản lâm quý vận, phong trần hốt ế, mê thiên hỗn tục, hòa quang thế giới, biến vi ngạ quỷ, huyệt cư dã xứ(14), thiên cái địa chiên, cơ tắc như thái dĩ sung tràng, khát tắc thanh tuyền nhi nhuận khẩu, gian tân khổ khuất, vị pháp vong khu, nghiên cùng tam giáo cửu lưu(15), lịch tận Bách gia Chư tử(16), thuật cổ kim chi thiện ác, cứu lịch kiếp chi quả nhân, ngụ mao trước tập, số biển mục vi Thiện ác quy cảnh. Thử tắc thành tương lai chi tuệ cự, dẫn chúng hướng minh đường(17), vĩ tai! chân khổ hải chi từ hàng, tế nhân đăng bỉ ngạn(18) giả nhĩ.
Thời Minh Mạng, thập tứ niên, trọng lữ(19) Phật đản nhật.
Thích Liễu Tạng khể thủ tán thuật.
Dịch nghĩa:
Lời tựa của tác phẩm Thiện ác quy cảnh lục
Bản tánh trong sáng giác ngộ, thể tính xưa nay vốn như như, nguồn tâm Bát-nhã, luôn vắng lặng chưa từng sinh diệt, đã không có tánh sinh diệt, làm sao còn có tên gọi tội phước chăng? Bởi chúng sinh ngay từ ý niệm ban đầu đã vọng tưởng vô minh, thay đổi theo cảnh dục trần, vứt bỏ niệm thiện trong sáng của tánh giác. Vì thế, bốn loài điên đảo, ba cõi mê mờ, nhiều kiếp chạy theo thói đời, chẳng có cách nào giải thoát. Cho nên, bậc Thánh nhân của Tam giáo đều rộng lòng thương vật, ẩn giấu pháp thực, khéo bày phương tiện, không ngừng trừ mê khai ngộ, dạy dỗ chúng sinh, nếu chúng sinh khéo quay lại soi chiếu, hẳn là sáng tỏ được tâm tánh vậy, như thế thì làm sao còn có tên gọi giả tạm về tội phước, nhân quả trong ba cõi, sáu đường chăng? Nay trộm nghĩ:
Lão tổ Từ Quang, sinh nhằm thời mạt pháp, trong chốn bụi trần che lấp, đạo lý lu mờ, thế tục rối ren, ngài hòa mình vào thế gian, sống giữa cảnh ngạ quỷ (ẩn dụ cho đời sống cơ cực), trú nơi hang sâu rừng vắng, trời làm màn, đất làm chiếu; đói thì ăn rau dại lót dạ, khát thì uống nước để thấm môi, gian nan vất vả, vì pháp quên thân. Học khắp Tam giáo cửu lưu, đọc hết Chư tử Bách gia, thuật lại thiện ác xưa nay, nghiên cứu nhân quả bao đời. Chấp bút sáng tác được vài thiên mục gom lại thành tập Thiện ác quy cảnh. Đây chính là ngọn đuốc trí tuệ cho mai sau, soi sáng con đường giác ngộ cho chúng sinh. Lớn lao thay! Quả là chiếc thuyền từ giữa biển khổ, cứu vớt bao người sang bờ giải thoát.
Viết vào ngày Phật đản, tháng 4 âm lịch, năm Minh Mạng thứ 14 (1833).
Sa-môn Liễu Tạng kính cẩn cúi đầu tán dương và ghi chép.
---‐-----‐-------------------
(1)Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB.TP.HCM, tr.18-19.
(2)Một số liệt kê của Đại đức Thích Không Hạnh khi giới thiệu trong văn bản phụ Thiện ác quy cảnh lục.
(3)https://giacngo.vn/van-tuong-niem-to-su-khanh-anh-1895-1961-post8404.html
(4)Trích trong phần Giới thiệu văn bản Thiện ác quy cảnh lục.
(5)Thiên minh天明: Chỉ cho tánh trong sáng hoặc là tánh giác.
(6)Như như 如如: Bản thể của tự tánh không có sự sinh diệt, không có động tĩnh, thông khắp cả thời gian và không gian.
(7)Bát-nhã 般若: S: prajnã̄; P: pañnã; danh từ dịch âm, dịch nghĩa là trí huệ, huệ, nhận thức; một khái niệm trung tâm của Phật giáo Ðại thừa, chỉ một thứ trí huệ không phải do suy luận hay kiến thức mà có (trí), mà là thứ trí huệ chớp nhoáng lúc trực nhận tính Không (s: sú̄nyatā), là thể tính của vạn sự. Ðạt được trí Bát-nhã được xem là đồng nghĩa với giác ngộ và là một trong những yếu tố quan trọng của Phật quả.
(8)Tứ sanh四生: Bao gồm thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh.
(9)Tam giới三界: Bao gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
(10)Ẩn thực thi quyền隱寔施權: Là một tư tưởng trong kinh Pháp hoa, được Đức Phật ứng dụng để giảng dạy cho chúng sinh căn cơ thấp. Như phẩm Hóa thành dụ, v.v.
(11)Phản chiếu hồi quang反照廻光: Là một thành ngữ, nghĩa là soi chiếu lại chính mình.
(12)Từ Quang lão tổ 慈光老祖: Chỉ cho Tổ Pháp Chuyên Diệu Nghiêm.
(13)Quý vận 季運: chỉ cho đời mạt pháp.
(14)Huyệt cư dã xứ 穴居野處: Là một thành ngữ chỉ cho cuộc sống ở nơi hoang dã, giống như đời sống người nguyên thủy.
(15)Tam giáo Cửu lưu三教九流: Tam giáo gồm: Nho, Phật, Lão; cửu lưu gồm: Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.
(16)Bách gia Chư tử 百家諸子: Bách gia gồm có Nho gia, Lão gia, Pháp gia,v.v. ; Chư tử: Lão tử, Trang tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử,v.v.
(17)Minh đường明堂: là ngôi nhà sáng; tức là ngôi nhà giải thoát.
(18)Bỉ ngạn 彼岸: Bờ bên kia, tức là bờ giải thoát, Niết-bàn.
(19)Trọng lữ 仲呂: 農曆四月的別稱 là tên gọi khác của tháng 4 âm lịch.
(NSGN 351)
Thích Thành Đạo/Nguyệt san Giác Ngộ