Ca sĩ Ánh Tuyết.
Văn Cao chỉ nói một câu mà tôi rơi nước mắt
PV: Khi thực sự bước trên con đường nghệ thuật chuyên nghiệp chị có được hướng dẫn từ ai ngoài ba mẹ không?
Ca sĩ Ánh Tuyết: Khi bắt đầu đi học trường âm nhạc Huế, người thầy đầu tiên hướng dẫn, mang đến tri thức trong thanh nhạc đó là cố nghệ sĩ nhân dân Lô Thanh. Tôi được 4 năm học ông, ông cũng là thầy của các ca sĩ Ái Vân, Lệ Quyên, Quang Huy, Quang Thọ, Thanh Hoa… Tôi là lớp đàn em sau. Đó là một người thầy tôi yêu quý, trân trọng, kính nể bởi cách dạy của ông. Ông rất tôn trọng sự phát triển bản năng của mỗi người học trò. Không áp đặt. Trong âm nhạc, phải từ bản năng mỗi ca sĩ để nâng cao hơn. Nếu không, họ chỉ là cái bóng.
Sau đó là các nhạc sĩ của miền quê phố Hội sông Hoài này như nhạc sĩ lão thành Hoàng Tú Mỹ người đã đặt nghệ danh cho tôi là Ánh Tuyết.
Tuy nhiên nếu để nói về chủ thể hướng dẫn mình thì đó phải là… chính âm nhạc. Những ca khúc của Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn… tôi nghe họ từ lúc chưa biết hết ý nghĩa của lời ca, nhưng vẫn hát như thể đó là những điều đã có sẵn trong máu thịt mình. Khi đó tôi chưa vào học tại Học viện âm nhạc Huế, không ai chỉ tôi cách phân tích bản phối hay kỹ thuật xử lý âm thanh. Tôi học bằng cách lắng nghe, nghe đi nghe lại một ca khúc hàng trăm lần, tự đặt câu hỏi: “Tại sao người nghệ sĩ này hát như thế?”, “Vì sao chỗ này họ lặng, chỗ kia họ ngân?”… Tôi hát cùng họ, rồi dần dần, tôi hát theo cách của riêng mình.
Và không thể không nhắc đến một người, đó là nhạc sĩ Văn Cao. Khi tôi hỏi ông về ca khúc Trương Chi, ông chỉ nhẹ nhàng nói: “Trương Chi là tôi đấy”. Câu nói ấy khiến tôi rơi nước mắt, và từ đó, tôi không còn hát chỉ để thể hiện giai điệu mà để kể lại những câu chuyện âm nhạc. Ông không cần chỉ tôi kỹ thuật, chỉ cần một ánh mắt, một nụ cười cũng đủ làm người ca sĩ hiểu rằng âm nhạc, trước hết là sự đồng cảm.
Gia đình, sự quý mến của các nhạc sĩ, những khán giả nghe tôi hát đã trở thành nguồn động lực mạnh mẽ nhất. Chính họ là những người đã dìu tôi đi qua từng nấc thang của nghề, không bằng lời dạy, mà bằng tình yêu và sự chân thành.
Vì sao chị gắn bó với dòng nhạc trữ tình cách mạng?
Dòng nhạc lãng mạn cách mạng với tôi không chỉ là thể loại, mà là một thế giới đa âm thanh của thơ ca và âm nhạc mang vẻ đẹp cổ điển xen lẫn nỗi niềm kiêu hãnh. Ở đó, người nghệ sĩ hát để gieo vào lòng người nỗi thổn thức, dư âm hoài niệm đẹp đẽ đến ám ảnh. Tôi say mê “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Gửi gió cho mây ngàn bay”, “Biệt ly” đến “Sông Lô”, “Người Hà Nội”… không chỉ vì giai điệu, mà vì cái khí chất, cái tâm thế của một thời đại được gói ghém trong từng lời ca.
Với nhạc cách mạng, những bài hát như “Tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy, “Trường ca sông Lô” của nhạc sĩ Văn Cao, “Người Hà Nội” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, hay "Hội trùng dương” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, “Bài ca hy vọng” của nhạc sĩ Văn Ký… là những câu chuyện kể có thật bằng âm nhạc về tình yêu đất nước, con người, lịch sử đất nước đi qua bằng âm nhạc.
Ca sĩ Ánh Tuyết biểu diễn trên sân khấu. Ảnh: nvcc.
Hát với tôi không phải để tìm kiếm hào quang
Bước ngoặt âm nhạc của chị để chị trở nên nổi tiếng và được đông đảo công chúng hâm mộ?
Nếu có một dấu mốc để gọi tên là “bước ngoặt” thì đó chính là đêm nhạc Văn Cao tổ chức tại TPHCM vào cuối tháng 7/1993. Đó là một tối định mệnh mà đến giờ tôi vẫn nghĩ do Tổ nghiệp đã sắp đặt. Tôi chọn hát “Buồn tàn thu” và “Thiên thai”, 2 ca khúc mà tôi đã thuộc không chỉ bằng trí nhớ mà bằng cảm xúc sâu kín của mình. Hôm ấy, tôi không nghĩ đến kỹ thuật, không nghĩ đến khán giả có đón nhận hay không, tôi chỉ đơn thuần là sống trong bài hát, để cho âm nhạc của Văn Cao thấm vào từng tế bào mình, như một nghi lễ thiêng liêng của tâm hồn. Kết thúc tiết mục, tôi cúi chào khán giả như thường lệ, không kỳ vọng gì nhiều. Nhưng ngay sáng hôm sau, tôi thấy tên mình trên các mặt báo: “Một tiếng hát lạ giữa Sài Gòn” - “Người thể hiện nhạc Văn Cao xúc động đến lặng người”… Tôi vẫn nhớ cảm giác ngỡ ngàng khi người ta tìm đến tôi để xin phỏng vấn, để nghe tôi hát lại “Thiên thai”. Đó là lần đầu tiên tôi hiểu rằng: đôi khi, chỉ một khoảnh khắc nhỏ nếu mình thật lòng, nếu mình dâng trọn tâm hồn cho âm nhạc thì cả vũ trụ sẽ lắng nghe.
Sớm bước chân vào con đường âm nhạc và gặt hái nhiều thành công, làm thế nào để chị luôn giữ được tinh thần tích cực của mình và luôn có những cống hiến không mệt mỏi cho âm nhạc?
Cuộc đời của một nghệ sĩ, đặc biệt là người dấn thân vào dòng nhạc mà tôi mang đến và gặt hái được sự yêu thương của nhiều khán giả dành cho. Tôi từng cô đơn, từng hoài nghi, từng có lúc muốn cất giọng hát ấy đi và chọn một cuộc sống bình yên, không còn sự rộn ràng của giai điệu, hay cái lấp lánh của ánh đèn sân khấu. Nhưng rồi, điều giữ tôi lại không phải là danh vọng mà là tình yêu. Tình yêu dành cho âm nhạc, cho khán giả, và cho chính con người thật của tôi mỗi khi được hát. Tôi chưa bao giờ xem việc hát là một “nghề” đúng nghĩa, càng không phải là công cụ để tìm kiếm hào quang. Với tôi, đó là một sứ mệnh, khi mình hiểu được điều đó, thì việc giữ một tinh thần tích cực không còn là điều quá khó khăn, bởi ta biết mình đang sống đúng với bản thể.
Hát cho ký ức tuổi trẻ của một thế hệ
Những kỷ niệm của chị với khán giả mỗi khi chị biểu diễn, nhất là thời kỳ đất nước sau chiến tranh và bước vào quá trình đổi mới?
Tôi luôn biết ơn khán giả. Họ là người giữ cho tôi sự kiên định. Tôi từng đi qua nhiều vùng đất, từng hát cho rất nhiều thế hệ. Có những người nghe tôi từ thời thanh xuân, rồi dắt con dắt cháu đi nghe tiếp. Có những khán giả viết thư tay gửi tôi chỉ để nói rằng “Chị hát lên ký ức của cả một thời tuổi trẻ chúng tôi”. Những điều đó không thể đong đếm được bằng tiền bạc hay danh hiệu nhưng lại là thứ nuôi tôi đi suốt một hành trình không mỏi mệt. Tôi hiểu rằng cuộc đời người nghệ sĩ không dài, nhưng sức lan tỏa của âm nhạc thì vô hạn. Vậy nên, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện “nghỉ hát”. Dù không còn hát mỗi ngày, dù có thể không còn rực rỡ như thời đỉnh cao, nhưng chỉ cần còn trái tim biết rung động, còn đôi tai biết lắng nghe, thì tôi vẫn sẽ hát. Có thể chỉ là cho riêng mình (cười).
Chị làm thế nào luôn nuôi dưỡng được tình yêu âm nhạc bên trong mình?
Âm nhạc với tôi là một dòng chảy nội tại. Nó ở đó, âm ỉ như than hồng, chỉ cần một làn gió nhẹ là bùng cháy. Và để giữ được ngọn lửa ấy, tôi học cách sống chậm lại, lắng nghe chính mình nhiều hơn. Tôi không cho phép bản thân hát khi tâm hồn đang rỗng, đang vội vàng xô lệch. Tôi chỉ hát khi trái tim mình thật sự có điều để nói.
Và tất nhiên rồi, khán giả là một phần không thể thiếu trong việc nuôi dưỡng tình yêu ấy. Chỉ cần một ánh mắt xúc động dưới hàng ghế khán giả là đủ để tôi biết rằng tình yêu mà tôi gửi vào âm nhạc đang được đón nhận. Và khi âm nhạc còn là nhịp cầu kết nối giữa tôi và cuộc đời thì tình yêu ấy sẽ không bao giờ mất.
Sau này khi hát nhiều thể loại, nhưng có thể thấy chị vẫn tiếp tục quan tâm đến việc đưa tình yêu quê hương đất nước, tinh thần Việt Nam vào những tác phẩm âm nhạc của mình?
Tôi từng hát “Tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy với cảm xúc như đang kể về một đời người Việt Nam gắn bó với ruộng đồng, với dòng sông rồi dọc dài qua các miền đất nước. Tôi từng thể hiện “Quê nghèo” hay “Huyền thoại mẹ” không bằng kỹ thuật mà bởi ký ức tuổi thơ của một đứa trẻ lớn lên trong những mùa lũ, từng thấy mẹ thắp đèn dầu rồi cố đứng che gió cho con học bài. Âm nhạc Việt Nam với tôi, không chỉ là giai điệu mà là một di sản tâm hồn.
Tôi tin rằng người nghệ sĩ, nếu không mang trong mình tình yêu đất nước thì rất khó để làm cho khán giả rung động thực sự.
Làm thế nào để chị có được những bước đi vững chắc, đầy trách nhiệm cho một mục tiêu xác định?
Tôi không bao giờ đặt ra những mục tiêu viển vông cho bản thân. Ngay từ những ngày đầu bước vào con đường âm nhạc, tôi đã tự nhủ: chỉ cần mỗi lần cất giọng, là một lần phải sống thật với trái tim mình. Và nếu còn ai đó muốn lắng nghe, thì ta còn trách nhiệm phải hát, hát bằng cả phần đời đã trải.
Tôi chưa bao giờ cho phép mình hát một bài chỉ vì nó “đang nóng”, cũng chưa từng chọn ca khúc vì dễ lấy lòng số đông. Với tôi, mỗi tác phẩm phản chiếu sự nghiêm túc của người nghệ sĩ. Nếu bản thân mình không rung động, thì làm sao mong khán giả rung động? Và để giữ được con đường ấy, tôi luôn nhắc bản thân phải sống giản dị, sống thật, sống tử tế với nghề. Dù là khi đứng trên sân khấu lớn hay chỉ hát cho một nhóm nhỏ thân quen, tôi vẫn hát hết mình.
Ca sĩ Ánh Tuyết biểu diễn trên sân khấu. Ảnh: nvcc.
Khi hát tôi có cảm giác mình là một phần của đất nước
Và khi tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc trở thành nền tảng cho sự thăng hoa sáng tạo, chị đã thấy mình làm được những gì và điều đó mang đến ý nghĩa cho cuộc sống của chị ra sao?
Tôi chưa bao giờ dám tự nhận mình đã “làm được nhiều điều”, nhưng tôi tin một điều: nếu một người nghệ sĩ giữ được ngọn lửa yêu nước trong lòng mình thì dù tiếng hát có nhỏ bé đến đâu, nó cũng sẽ tìm được đường đến trái tim công chúng. Tôi luôn tin rằng, tinh thần yêu nước không nhất thiết phải thể hiện bằng những điều lớn lao, mà đôi khi chỉ đơn giản là cách mình giữ gìn một giai điệu xưa, nâng niu một bài hát từng đi qua chiến tranh, hay thắp sáng lại một ca khúc tiền chiến tưởng chừng đã bị lãng quên. Khi tôi hát “Hướng về Hà Nội” hay “Trường ca sông Lô” tôi không chỉ hát một bản nhạc, tôi đang hát cả một thời đại, một khí phách, một hồn cốt dân tộc.
Vậy nên, nếu có ai hỏi: “Âm nhạc đã cho chị điều gì quý giá nhất?”, thì tôi xin trả lời rằng: chính là cảm giác được làm một phần của đất nước mình. Được hòa mình vào lịch sử qua những giai điệu, được góp một tiếng nói lặng thầm vào bản hòa ca dân tộc. Được sống không chỉ cho mình mà còn cho một điều gì đó lớn hơn, dài lâu hơn, và thiêng liêng hơn cả danh tiếng: đó là bản sắc Việt, tâm hồn Việt, và niềm tự hào được là người nghệ sĩ của Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Nói đến Ánh Tuyết, nói đến hành trình âm nhạc đầy tự hào, chị chia sẻ về những gì chị đã làm cho âm nhạc?
Tôi nghĩ hành trình của tôi không phải là chinh phục mà là giữ gìn. Giữ gìn những ca khúc tiền chiến như “Thiên thai”, “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Dư âm”… bằng chính hơi thở của thời đại hôm nay, để khán giả trẻ vẫn có thể tìm thấy trong đó sự đồng điệu. Giữ gìn những bài hát cách mạng như “Tình em”, “Huyền thoại mẹ”, “Người Hà Nội”… như giữ lấy ký ức tập thể của một dân tộc đã từng sống, từng hy sinh và luôn mang khát vọng nhân văn. Nếu có thể gọi đó là “những gì tôi đã làm được cho âm nhạc” thì tôi xin giữ lại nó như một lời tri ân dành cho Tổ nghiệp, cho nhân dân, cho quê hương Hội An đã dưỡng nuôi tôi, và cho âm nhạc - người bạn tri kỷ, thủy chung nhất mà tôi đã có trong cuộc đời.
Chị có thể cho biết dự định tới đây về âm nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung cũng như cuộc sống của chị?
Ngoài âm nhạc, tôi muốn dành nhiều thời gian hơn cho thiên nhiên, cho bản thân và những điều giản dị. Tôi muốn đọc thêm sách, viết vài dòng ghi chép lại hành trình đời nghệ sĩ không để xuất bản, mà như một hình thức tĩnh tâm. Tôi cũng muốn chăm sóc khu vườn nhỏ ở Hội An thật tốt, nuôi thêm vài chú mèo nữa, và nếu có duyên mở một lớp dạy hát mộc mạc không vì kỹ thuật, mà để hướng các bạn trẻ về cảm xúc, về sự chân phương trong giọng hát.
Và nếu một ngày nào đó tôi không còn hát nữa, thì tôi vẫn tin rằng âm nhạc trong tôi sẽ không mất. Nó sẽ ở lại trong nụ cười khán giả, trong kỷ niệm của những đêm nhạc cũ, và trong chính sự bình yên tôi đang sống hôm nay.
Trân trọng cảm ơn chị!
Nguyễn Quỳnh Trang (thực hiện)