Chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Luật Hợp tác xã được quy định chi tiết tại Nghị định 113/2024/NĐ-CP trong đó nêu rõ 9 chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã từ ngày 1/11/2024.
Cụ thể, Nhà nước có chính sách hỗ trợ phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã gồm:
Thứ nhất, chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 100% chi phí xây dựng, triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực; Ngân sách nhà nước chi trả 100% kinh phí đối với công chức, viên chức cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hệ thống Liên minh hợp tác xã Việt Nam, các hiệp hội, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, giảng viên khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ thông tin được công bố trên Cổng thông tin quốc gia về hợp tác xã và Ngân sách nhà sẽ nước hỗ trợ tối đa 100% kinh phí thực hiện.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ tư vấn cho tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 100% kinh phí thực hiện nội dung này.
Thứ tư, chính sách hỗ trợ tối đa 100% kinh phí cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có nhu cầu học tập từ mô hình hiệu quả bao gồm: tổ chức hội nghị, hội thảo phổ biến kinh nghiệm; tham quan, khảo sát; tư vấn, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 100% kinh phí.
Thứ sáu, chính sách hỗ trợ tiếp cận và nghiên cứu thị trường, ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 100% kinh phí tham gia hội chợ, triển lãm trong nước; kinh phí thuê địa điểm và vận hành một số điểm giới thiệu, bán sản phẩm của các tổ chức kinh tế tập thể.
Thứ bảy, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trang thiết bị cho tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hình thành chuỗi sản xuất, cung cấp dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tám, chính sách hỗ trợ tư vấn tài chính và đánh giá rủi ro bằng việc hỗ trợ phần chi phí kiểm toán mà hợp tác xã đã thực hiện thuê tổ chức kiểm toán độc lập để thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính năm trước liền kề trong trường hợp hợp tác xã quy mô siêu nhỏ và nhỏ được Nhà nước hỗ trợ với kinh phí hỗ trợ từ 3 tỷ đồng trở lên.
Thứ chín, chính sách hỗ trợ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp bằng việc hỗ trợ vốn, giống, trang thiết bị ứng dụng khoa học và công nghệ khi tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chuyển đổi sang sản xuất bền vững, nông nghiệp hữu cơ, thích ứng với biến đổi khí hậu theo các đề án từ nguồn kinh phí nhà nước.
Quy định mới khi đặt lệnh giao dịch mua cổ phiếu
Thông tư 68/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 18/9/2024 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; trong đó có việc sửa đổi, bổ sung quy định về việc cần có đủ tiền khi đặt lệnh giao dịch mua cổ phiếu sẽ có hiệu lực từ ngày 2/11/2024.
Đồng thời, Thông tư cũng bổ sung quy định về việc công ty chứng khoán thực hiện đánh giá rủi ro thanh toán của nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức để xác định mức tiền phải có khi đặt lệnh mua cổ phiếu (nếu có) theo thỏa thuận giữa công ty chứng khoán và nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức hoặc đại diện theo ủy quyền của nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức không thanh toán đủ tiền cho giao dịch mua cổ phiếu, nghĩa vụ thanh toán giao dịch thiếu tiền sẽ được chuyển cho công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức đặt lệnh thông qua tài khoản tự doanh.
Các khoản lỗ, lãi và chi phí khác phát sinh khi thực hiện giao dịch theo quy định sẽ được thực hiện theo thỏa thuận giữa công ty chứng khoán và nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức hoặc đại diện theo ủy quyền của nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức.
Ngân hàng lưu ký nơi nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức mở tài khoản lưu ký chứng khoán chịu trách nhiệm thanh toán giao dịch thiếu tiền và các chi phí phát sinh (nếu có) trong trường hợp xác nhận sai số dư tiền gửi của nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức với công ty chứng khoán dẫn tới thiếu tiền thanh toán giao dịch mua cổ phiếu.
Quy định mới về mức lãi suất
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng loạt Thông tư quy định về mức lãi suất của tổ chức, cá nhân có hiệu lực từ ngày 20/11/2024.
Cụ thể, loạt Thông tư này gồm: Thông tư 46/2024/TT-NHNN về quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng USD của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tại Điều 3 về lãi suất, Thông tư nêu rõ: “Tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất tiền gửi bằng USD không vượt quá mức lãi suất tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ đối với tiền gửi của tổ chức và tiền gửi của cá nhân".
Lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD quy định tại Thông tư này bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, áp dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ và các phương thức trả lãi khác được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ. Tổ chức tín dụng phải niêm yết công khai lãi suất tiền gửi bằng USD tại địa điểm giao dịch hợp pháp thuộc mạng lưới hoạt động của tổ chức tín dụng và đăng tải trên trang thông tin điện tử (nếu có) của tổ chức tín dụng. Khi nhận tiền gửi, tổ chức tín dụng không được thực hiện khuyến mại dưới mọi hình thức (bằng tiền, lãi suất và các hình thức khác) không đúng với quy định của pháp luật”.
Thông tư 47/2024/TT-NHNN, ban hành ngày 30/9/2024, đổi khoản 3 Điều 3 Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16/6/2022 về việc sửa đổi hình thức tiền gửi rút trước hạn từ chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu do tổ chức tín dụng phát hành thành “chứng chỉ tiền gửi do tổ chức tín dụng phát hành”.
Thông tư 48/2024/TT-NHNN, cũng ban hành ngày 30/9/2024, quy định về việc áp dụng lãi suất đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong đó nêu rõ rằng lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam không vượt quá lãi suất tối đa với tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 1 tháng và có kỳ hạn từ 1 - dưới 6 tháng trong từng thời kỳ và từng loại hình tổ chức tín dụng.
Quy định về điều kiện thành lập hội
Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 26/11/2024, quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Theo Nghị định 126/2024/NĐ-CP, việc thành lập hội từ ngày 26/11/2024 phải đảm bảo các điều kiện:
Tên gọi của hội phải được viết bằng tiếng Việt hoặc phiên âm theo tiếng Việt. Nếu không phiên âm ra được tiếng Việt thì có thể dùng tiếng nước ngoài. Tên gọi riêng của hội có thể được phiên âm hoặc dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật. Tên gọi phải phù hợp với tôn chỉ, mục đích, phạm vi, lĩnh vực hoạt động chính của hội; không trùng lặp toàn bộ tên gọi hoặc gây nhầm lẫn với tên gọi với các hội khác đã được thành lập hợp pháp trước đó; không vi phạm đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc.
Lĩnh vực hoạt động chính không được trùng lặp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động. Hội phải có tôn chỉ, mục đích và lĩnh vực hoạt động phù hợp quy định pháp luật. Hội cần có điều lệ, trừ trường hợp hội quy định tại khoản 5 Điều 21 Nghị định này. Hội cũng phải có trụ sở theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định này.
Cần có đủ số lượng tổ chức và công dân Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội, trừ trường hợp luật hoặc pháp lệnh có quy định khác. Cụ thể, hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh có ít nhất 100 tổ chức, công dân từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên, đảm bảo đủ điều kiện, tự nguyện và có đơn đăng ký tham gia thành lập hội. Hội hoạt động trong phạm vi tỉnh có ít nhất 50 tổ chức và công dân từ hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên, cũng phải đảm bảo đủ điều kiện, tự nguyện và có đơn đăng ký tham gia thành lập hội.
Ngoài ra, hiệp hội của các tổ chức kinh tế hoạt động trong phạm vi toàn quốc phải có hội viên là đại diện các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân của Việt Nam, với ít nhất 11 đại diện pháp nhân ở nhiều tỉnh. Hiệp hội hoạt động trong phạm vi tỉnh cần có ít nhất 5 đại diện pháp nhân trong tỉnh cùng ngành nghề hoặc cùng lĩnh vực hoạt động, đảm bảo đủ điều kiện, tự nguyện và có đơn đăng ký tham gia thành lập hiệp hội.
Hội cũng phải có tài sản để đảm bảo hoạt động. Nghị định 126/2024/NĐ-CP nêu rõ rằng tổ chức và công dân Việt Nam có nhu cầu thành lập hội phải thành lập ban vận động thành lập hội, bao gồm trưởng ban, phó trưởng ban và các ủy viên theo quy định và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ban vận động thành lập hội.
Nguyễn An