Các giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045

Các giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
10 giờ trướcBài gốc
Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba ở Đông Nam Á, sau Indonesia và Philippines, với dân số ước đạt 102 triệu người vào năm 2025. Tăng trưởng GDP duy trì ở mức khá cao, bình quân 7% trong giai đoạn 2010-2020. Cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu năng lượng tăng mạnh, khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2001-2010. Trong đó, nhu cầu điện tăng 13%/năm giai đoạn 2001-2010 và khoảng 11%/năm giai đoạn 2011-2015. Thực tế này khiến các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước khó đáp ứng đủ, Việt Nam đã phải nhập khẩu than cho phát điện và LPG từ năm 2023.
Việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia theo Nghị quyết 70-NQ/TW đến năm 2030, tầm nhìn 2045, phải gắn chặt với phát triển năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu và kinh tế tuần hoàn. Trong đó, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là trụ cột.
Trước bối cảnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Theo đó, tổng cung năng lượng sơ cấp dự kiến đạt khoảng 150-170 triệu tấn dầu quy đổi; tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đạt 120-130 triệu tấn dầu quy đổi. Tỷ lệ tiết kiệm năng lượng phải đạt từ 8-10% so với kịch bản phát triển thông thường. Đặc biệt, năng lượng tái tạo chiếm từ 25-30% trong tổng cung năng lượng sơ cấp, phản ánh xu thế chuyển dịch tất yếu của Việt Nam.
Ngành điện đặt mục tiêu nâng tổng công suất nguồn lên 183-236 GW, xây dựng hệ thống điện thông minh, hiệu quả, độ tin cậy cao và chỉ số tiếp cận điện năng vào nhóm 3 ASEAN. Về xăng dầu và khí đốt, các nhà máy lọc dầu phải đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu nội địa, dự trữ quốc gia nâng lên tương đương 90 ngày nhập ròng, đồng thời phát triển hạ tầng nhập khẩu LNG để phục vụ phát điện và các ngành kinh tế.
Trong báo cáo tham luận tại Diễn đàn Đổi mới sáng tạo năng lượng năm 2025, ông Đặng Hải Dũng cho rằng, kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết 70 cần được xây dựng dựa trên bốn trụ cột chính. Thứ nhất là sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, coi đây là giải pháp “cầu” quan trọng nhất. Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đến năm 2030 sẽ được triển khai song song với việc hoàn thiện khung pháp lý sau khi Luật 77/2025/QH15 (sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả) có hiệu lực. Các định mức tiêu thụ năng lượng cụ thể sẽ được ban hành, đồng thời thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh dịch vụ năng lượng (ESCO).
Bộ Công Thương cũng nghiên cứu thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng xã hội hóa. Bên cạnh đó, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ kiểm toán năng lượng, áp dụng công nghệ hiệu suất cao, tích hợp năng lượng tái tạo, còn thị trường sẽ được khuyến khích tiêu thụ các sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Các chương trình đào tạo, tập huấn, truyền thông sẽ giúp nâng cao nhận thức xã hội và tạo thay đổi hành vi sử dụng năng lượng.
Trụ cột thứ hai là khoa học và công nghệ. Đây được coi là đòn bẩy thúc đẩy toàn bộ quá trình chuyển dịch năng lượng. Một chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia về năng lượng sẽ được xây dựng, tập trung vào các công nghệ tương lai như lưới điện thông minh, hệ thống lưu trữ năng lượng và hydrogen. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sẽ được rà soát, tiệm cận với quốc tế. Đặc biệt, ứng dụng công nghệ 4.0 được nhấn mạnh: bản sao số (Digital Twin) phục vụ tối ưu hóa vận hành nhà máy; blockchain tăng cường minh bạch trong giao dịch năng lượng; trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn hỗ trợ dự báo, điều độ và vận hành hệ thống điện thông minh hơn.
Trụ cột thứ ba là bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Các chính sách ngành sẽ được điều chỉnh để phù hợp với cam kết quốc tế, trong đó có tuyên bố JETP về chuyển dịch năng lượng công bằng. Việt Nam cũng cần chủ động nghiên cứu các hàng rào kỹ thuật liên quan đến carbon nhằm hỗ trợ doanh nghiệp. Hệ thống quản lý phát thải sẽ được xây dựng dựa trên dữ liệu, bao gồm cơ sở dữ liệu trực tuyến về kiểm kê khí nhà kính và hệ thống Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định (MRV). Một lộ trình cụ thể cho thị trường carbon trong nước cũng được vạch ra, gồm phân bổ hạn ngạch phát thải và xây dựng quy trình cấp tín chỉ carbon.
Trụ cột thứ tư là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đây là mô hình phát triển tất yếu nhằm tối ưu hóa sử dụng tài nguyên. Việt Nam sẽ triển khai các chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững, giúp doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế, đặc biệt là Liên minh châu Âu. Hợp tác quốc tế được tăng cường, trong đó các chương trình hợp tác với Hà Lan và tổ chức IDH sẽ được đẩy mạnh nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi.
Ông Đặng Hải Dũng nhấn mạnh, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 không chỉ dừng ở việc cung ứng đầy đủ, mà còn gắn với mục tiêu phát triển bền vững, chuyển dịch xanh và hội nhập quốc tế. Bốn trụ cột chiến lược - sử dụng năng lượng tiết kiệm, thúc đẩy khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn - chính là nền tảng để Việt Nam xây dựng một hệ thống năng lượng hiện đại, tự chủ, bền vững và có khả năng cạnh tranh trong khu vực cũng như trên toàn cầu.
Đình Khương
Nguồn PetroTimes : https://petrovietnam.petrotimes.vn/cac-giai-phap-bao-dam-an-ninh-nang-luong-quoc-gia-den-nam-2030-tam-nhin-den-2045-732459.html