Người dân đến làm thủ tục hành chính tại điểm tiếp nhận xã Canh Vinh, tỉnh Gia Lai. (Ảnh: PHÚC THẮNG)
Phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã
Một trong những nội dung cơ bản, cốt lõi của Luật Tổ chức chính quyền địa phương là việc phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền đối với chính quyền địa phương ở cấp tỉnh và cấp xã.
Theo Bộ Nội vụ, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã theo các nguyên tắc sau.
Thứ nhất, cấp tỉnh tập trung ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, quản lý vĩ mô, các vấn đề có tính chất liên vùng, liên cơ sở, vượt quá năng lực giải quyết của cơ sở, đòi hỏi chuyên môn sâu và bảo đảm tính thống nhất trên toàn cấp tỉnh.
Thứ hai, cấp xã là cấp tổ chức thực hiện chính sách (từ Trung ương và cấp tỉnh), tập trung vào các nhiệm vụ phục vụ người dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư, cung cấp các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho người dân trên địa bàn; các nhiệm vụ cần sự tham gia của cộng đồng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp cơ sở.
Thứ ba, điều chuyển các nhiệm vụ, quyền của chính quyền địa phương cấp huyện hiện nay cho cấp xã và cấp tỉnh (qua rà soát, cấp xã mới dự kiến sẽ đảm nhận khoảng 86% số nhiệm vụ từ cấp huyện chuyển về, còn cấp tỉnh sẽ đảm nhận khoảng 14% nhiệm vụ từ cấp huyện); bổ sung một số quy định nhằm đẩy mạnh phân quyền từ trung ương cho chính quyền địa phương cấp tỉnh, nhất là trong việc ban hành các cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực quy hoạch, tài chính, ngân sách, đầu tư…
Điều chuyển các nhiệm vụ, quyền của chính quyền địa phương cấp huyện hiện nay cho cấp xã và cấp tỉnh (qua rà soát, cấp xã mới dự kiến sẽ đảm nhận khoảng 86% số nhiệm vụ từ cấp huyện chuyển về, còn cấp tỉnh sẽ đảm nhận khoảng 14% nhiệm vụ từ cấp huyện).
Bộ Nội vụ cũng lưu ý một số điểm mới cơ bản về nội dung này. Cụ thể là:
Những vấn đề liên quan đến phạm vi từ 2 dịch vụ hành chính cấp xã trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền địa phương cấp tỉnh. Căn cứ tình hình thực tiễn, chính quyền địa phương cấp tỉnh giao cho chính quyền địa phương của một trong các dịch vụ hành chính cấp xã có liên quan chủ trì giải quyết.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được đề xuất với Chính phủ đề nghị Quốc hội phân quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương (kể cả cấp xã) thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phân cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương (kể cả cấp xã) thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương
Mở rộng chủ thể phân cấp, ủy quyền và chủ thể nhận phân cấp ủy quyền. Trong đó, đáng chú ý là:
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thực hiện phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp xã.
Chính quyền địa phương cấp xã là chủ thể nhận phân cấp, chính quyền địa phương cấp xã không thực hiện phân cấp cho các cơ quan, tổ chức cá nhân khác.
Chính quyền địa phương cấp xã được quyền có ý kiến hoặc đề xuất phân cấp, ủy quyền đối với cơ quan, người có thẩm quyền cấp trên trong việc phân cấp, ủy quyền thực hiện nhiệm vụ cho mình; đề nghị Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện được việc phân cấp, ủy quyền.
Chính quyền địa phương cấp xã nhận ủy quyền thì không được thực hiện ủy quyền tiếp.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy quyền cho công chức thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ trong trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể, trừ trường hợp pháp luật quy định không được ủy quyền. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã được ủy quyền cho công chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã và Ủy ban nhân dân cấp xã
Cẩm nang chính quyền địa phương cấp xã do Bộ Nội vụ ban hành. (Ảnh: NGÂN ANH)
Theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân gồm Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thường trực Hội đồng nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên là Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cấp xã. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã có thể là đại biểu hoạt động chuyên trách.
Hội đồng nhân dân cấp xã thành lập 2 Ban: Ban Kinh tế-Ngân sách và Ban Văn hóa-Xã hội. Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã gồm có Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban và các ủy viên. Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã có thể là đại biểu hoạt động chuyên trách.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã, Phó Trưởng Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã, việc bố trí đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã hoạt động chuyên trách.
Về tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên.
Căn cứ các tiêu chí về quy mô dân số, diện tích tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và các yếu tố đặc thù của từng dịch vụ hành chính cấp xã ở nông thôn, đô thị, hải đảo, Ủy ban nhân dân cấp xã được tổ chức các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác hoặc bố trí các công chức chuyên môn để tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ.
Chính quyền địa phương 2 cấp chính thức đi vào vận hành từ ngày 1/7/2025. Sau gần hai tháng triển khai, các địa phương đã hoàn thành sắp xếp, kiện toàn Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã; đã thành lập 465 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân 34 tỉnh, thành phố và 9.916 phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân 3.321 xã, phường, đặc khu.
(Nguồn: Bộ Nội vụ)
Luật Tổ chức chính quyền địa phương giao Chính phủ quy định khung số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; số lượng và cơ cấu Ủy ban nhân dân; khung số lượng cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã hoặc việc bố trí các công chức chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã để tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Triển khai việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã, sau sắp xếp cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (6 thành phố và 28 tỉnh); 3.321 đơn vị hành chính cấp xã (2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu).
Trên cơ sở đó, chính quyền địa phương 2 cấp chính thức đi vào vận hành từ ngày 1/7/2025. Thống kê từ Bộ Nội vụ cho thấy, sau gần hai tháng triển khai vận hành chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các địa phương đã hoàn thành sắp xếp, kiện toàn Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp xã; đã thành lập 465 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân 34 tỉnh, thành phố và 9.916 phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân 3.321 xã, phường, đặc khu.
NGÂN ANH