Thuốc lá nung nóng là thuốc lá và không phải thuốc lá điện tử
Phát biểu tại tọa đàm, ông Lê Thành Hưng cho rằng, cách gọi “thuốc lá mới” (TLM) hiện không còn phản ánh đúng tính chất “mới” của những sản phẩm này. Trên thực tế, các loại TLM này đã lưu hành trên thế giới hơn 30 năm và có mặt tại Việt Nam hàng chục năm qua, với hai hình thức phổ biến là thuốc lá điện tử (TLĐT) và thuốc lá nung nóng (TLNN).
Theo ông Hưng, các dòng sản phẩm của TLĐT và TLNN cũng rất đa dạng, đặc biệt với sự xuất hiện của nhiều sản phẩm lai. TLĐT được phân thành hai loại chính là dạng đóng và dạng mở. Trong khi đó, TLNN có loại TLNN nguyên bản (chỉ sử dụng nguyên liệu thuốc lá tự nhiên) và TLNN dị bản (pha trộn giữa thuốc lá và dung dịch thuốc lá điện tử, hoặc dùng nguyên liệu khác).
Với sản phẩm TLNN nguyên bản, ông Hưng nhận định, nhiều văn bản quốc tế đã thống nhất rằng TLNN (nguyên bản) là sản phẩm thuốc lá vì sử dụng thuốc lá thật, giống như thuốc lá truyền thống. Điểm khác biệt then chốt của hai loại sản phẩm này nằm ở cơ chế hoạt động, vì thuốc lá điếu cần đốt cháy trực tiếp, còn TLNN không đốt cháy mà dùng thiết bị điện tử để chỉ làm nóng điếu thuốc lá đặc chế. “Đấy là những điểm cần lưu ý để đưa ra chính sách quản lý phù hợp”, ông Hưng nhấn mạnh.
Ông Hưng cho biết, báo cáo năm 2020 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công nhận, TLNN chứa thuốc lá nên là sản phẩm thuốc lá. Trên cơ sở đó, WHO khuyến nghị quản lý sản phẩm này theo khung pháp lý hiện hành của nước sở tại áp dụng đối với các sản phẩm thuốc lá (như thuốc lá điếu, xì gà …), và tách bạch hoàn toàn với TLĐT. Bên cạnh WHO, ông Hưng cũng cho biết thêm, nhiều tổ chức quốc tế khác cũng đã ban hành các tiêu chuẩn liên quan đến TLNN. Điển hình, năm 2024 Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) đã công bố bộ tiêu chuẩn về thuật ngữ và định nghĩa của TLNN, khẳng định TLNN không phải là TLĐT.
Ông Lê Thành Hưng, Trưởng Phòng Tiêu chuẩn nông nghiệp thực phẩm, Viện Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ. Ảnh: Quang Vinh.
“ISO cũng đưa ra những tiêu chuẩn liên quan đến khí thải từ TLNN. Đây là một yếu tố đặc thù cần được thu thập và nghiên cứu riêng biệt nhằm phục vụ công tác đánh giá tác động và xây dựng quy chuẩn quản lý, đồng thời làm rõ bản chất của sản phẩm”, ông Hưng cho biết thêm.
Mức độ gây hại cũng là điểm khác biệt giữa TLNN và thuốc lá điếu truyền thống. Cụ thể, với TLNN khi dùng thiết bị làm nóng điếu thuốc thì chỉ sinh ra hàm lượng khí CO (cacbon monoxit) ở mức dưới 0,3 miligam/100ml - thấp hơn đáng kể so với thuốc lá điếu truyền thống vì hoạt động bằng cơ chế đốt cháy trực tiếp.
Ông Hưng lưu ý rằng, mặc dù TLM đang trở nên phổ biến trên phạm vi toàn cầu, nhưng không ít người tiêu dùng vẫn nhầm lẫn giữa TLĐT và TLNN, đặc biệt khi thị trường xuất hiện một số sản phẩm lai.
Từ thực tiễn đó, ông Hưng đề nghị cần phân biệt rõ các dòng TLM. Trong đó, cần chú ý đến những sản phẩm lai vốn khó kiểm soát để xây dựng cách thức ứng xử và quản lý phù hợp, tránh bỏ sót những sản phẩm gây hại cho sức khỏe.
Cân nhắc yếu tố khoa học khi đồng bộ hóa hệ thống pháp luật
Cũng trong khuôn khổ tọa đàm, các đại biểu đồng thuận cần sửa Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá và các quy định pháp luật liên quan để thực thi Nghị quyết 173 cấm các sản phẩm thuốc lá mới. Theo đó, ông Lê Thành Hưng đề xuất cần cân nhắc các yếu tố khoa học trong quá trình xây dựng và sửa đổi hệ thống pháp luật liên quan, tránh nhầm lẫn giữa TLĐT và TLNN, cũng như giữa TLNN nguyên bản và dị bản.
Ông Hưng cho hay, một số tổ chức khoa học trên thế giới xếp TLĐT vào nhóm rộng hơn gọi là “thuốc lá hóa hơi” – bao gồm cả các sản phẩm như shisha điện tử. Các sản phẩm này sử dụng nhiệt hoặc năng lượng điện tử để hóa hơi dung dịch và sử dụng. Dù không được định danh cụ thể, nhưng về mặt bản chất hoạt động, các sản phẩm này có cơ chế giống với TLĐT. Vậy cấm TLĐT thì có cấm shisha điện tử? – ông Hưng đặt vấn đề.
Vì vậy, từ góc độ chuyên môn kỹ thuật, ông Hưng nhận định, cần cân nhắc kỹ các cơ sở khoa học để xây dựng chính sách phù hợp. Trong quá trình quản lý, các cơ quan chức năng cần tham chiếu nhiều yếu tố liên quan để xây dựng chính sách phù hợp với thực tiễn từng quốc gia. Việc tham khảo quan điểm từ các tổ chức quốc tế cũng rất quan trọng trong việc định hướng và quản lý tại Việt Nam”, ông Hưng kiến nghị.
Nguyễn Nguyễn