Dậy thì là một cột mốc vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ, đây là dấu hiệu của sự chuyển giao trước khi trẻ chính thức trở thành những người trưởng thành. Độ tuổi bắt đầu dậy thì ở cả nam và nữ thường được xác định từ 12-14 tuổi.
Dậy thì cũng là thời kỳ phát triển thể chất mạnh mẽ của trẻ, với những thay đổi vượt bậc về khung xương, cơ bắp, nội tiết và hệ thần kinh. Ở lứa tuổi từ 12-14, khối lượng, kích thước của xương và mật độ khoáng trên mỗi xương mỗi năm tăng lên khoảng 4%, tính từ khi trẻ lên 8 tuổi cho đến qua thời kỳ dậy thì.
Cũng trong độ tuổi này, nếu trẻ có chế độ ăn uống khoa học và đầy đủ dưỡng chất, vận động khoa học và nghỉ ngơi hợp lý thì chiều cao của trẻ cũng có thể tăng lên khoảng 8 - 12 cm. Đây là kết quả của một năm bất kỳ trong độ tuổi dậy thì.
Đối với bé gái, có thể phát triển thêm 10cm/ năm khi đến giai đoạn 10 tuổi và cho đến 12 tuổi tăng dần 15cm/ năm và giảm dần sau 15 tuổi. Đối với bé trai, tốc độ tăng trưởng của cơ thể đạt đỉnh ở tuổi 12 (10 cm/ năm), đạt kích thước tối đa ở tuổi 14 (15 cm/ năm) và bắt đầu suy giảm dần từ năm 17 tuổi trở đi.
Dậy thì là một cột mốc vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của trẻ. Ảnh minh họa
Ba giai đoạn phát triển chiều cao vượt trội của trẻ
Ba giai đoạn phát triển chiều cao vượt trội của trẻ gồm:
Giai đoạn trong bào thai: trong 9 tháng mang thai, nếu người mẹ được ăn uống tốt tăng từ 10 - 12kg thì con sẽ đạt được chiều cao 50cm lúc chào đời và nặng từ 3kg trở lên.
Giai đoạn sơ sinh đến 3 tuổi: 12 tháng đầu trẻ tăng 25cm; 2 năm tiếp theo mỗi năm trẻ cao thêm 10cm nếu được nuôi dưỡng tốt.
Giai đoạn dậy thì (bao gồm tiền dậy thì và dậy thì): Tuổi tiền dậy thì của trẻ em Việt Nam thông thường là 9-11 tuổi đối với nữ và 12-14 tuổi đối với nam, lứa tuổi này chiều cao của trẻ tăng rất cao, trẻ nữ tăng mỗi năm khoảng 6cm và trẻ nam là 7cm hoặc hơn nữa nếu dinh dưỡng vận động hợp lý. Khi đến tuổi dậy thì (12-13 đối với nữ và 15-16 đối với nam) thì sức lớn chậm lại, mỗi năm tăng khoảng 2cm.
Tuy nhiên, trong thực tế giai đoạn này ở mỗi trẻ mỗi khác và chúng ta không thể biết chính xác ranh giới tiền dậy thì và dậy thì của từng trẻ, do đó nên đảm bảo dinh dưỡng tốt cho trẻ suốt cả giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì để giúp trẻ phát triển. Vì sau thời kỳ dậy thì, cơ thể trẻ cũng tăng chiều cao nhưng với tốc độ rất chậm, tổng cộng số tăng chiều cao của các năm sau không bằng một năm chiều cao tăng vọt trong thời kỳ tiền dậy thì.
Dinh dưỡng giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì
Giai đoạn trẻ tiền dậy thì và dậy thì là giai đoạn trẻ phát triển mạnh, nhanh về thể lực. Có sự thay đổi của hệ thần kinh, nội tiết mà nổi bật là sự hoạt động của các tuyến sinh dục tăng lên, gây ra những biến đổi về hình thức và sự tăng trưởng của cơ thể trẻ. Tuổi này trẻ hoạt động nhiều, nên cần phải có một chế độ dinh dưỡng thật tốt cho trẻ phát triển hết tiềm năng.
Nhu cầu năng lượng:
Mỗi ngày trẻ cần 2.200 - 2.600 calo, tương đương với người trưởng thành. Nếu không cung cấp đúng và đủ trẻ sẽ bị thiếu hụt dinh dưỡng dẫn đến chậm hoàn thiện và phát triển các bộ phận cơ thể. Lượng đạm cần cao hơn người trưởng thành, giúp trẻ phát triển cơ bắp, nên chiếm 14 - 15% tổng số năng lượng trong khẩu phần, tương đương với 70 - 80gr/ ngày, chú ý đạm động vật nhiều sắt giúp phòng chống thiếu máu, cũng như cung cấp vật liệu để xây dựng các cấu trúc tế bào và hoàn thiện phát triển các nội tiết tố về giới tính, tham gia vào hệ miễn dịch nhằm tăng sức đề kháng.
Chất béo (dầu, mỡ) nên chiếm 20 - 25% năng lượng khẩu phần, là nguồn cung cấp năng lượng, giúp cơ thể hấp thu các vitamin tan trong chất béo như vitamin A, D, E, K, nên cho trẻ ăn cả mỡ động vật và dầu thực vật, khoảng 40 - 50gr mỗi ngày.
Chất bột đường cung cấp năng lượng chính cho cơ thể chiếm 60 - 70% năng lượng có trong gạo, bột mì, sản phẩm chế biến, khoai, củ… Nên chọn lựa những loại bột đường thô để cung cấp chất xơ tốt cho đường tiêu hóa và phòng chống béo phì.
Các vitamin và khoáng chất:
Canxi: đặc biệt cần thiết cho lứa tuổi dậy thì, là chất dinh dưỡng chính tham gia vào cấu trúc hệ xương, thiếu canxi sẽ ảnh hưởng đến sức lớn và sự vững chắc của xương. Nếu được cung cấp đầy đủ sẽ giúp xương chắc khỏe và độ đậm xương đạt mức tối đa giúp trẻ phát triển tốt về chiều cao và phòng được bệnh loãng xương sau này. Tuổi này mỗi ngày trẻ cần 1.000 - 1.200mg canxi. Canxi có nhiều trong sữa và các chế phẩm của sữa như phô mai, sữa chua, trong những loại đậu, các loại thủy sản như tôm, cua, hàu, nghêu, sò, hến..., các loại cá nhỏ kho nhừ ăn cả xương... Nên cho trẻ uống ít nhất 500ml - 600ml sữa/ ngày.
Sắt: nhu cầu ở bé trai khoảng 12 - 18 mg sắt/ ngày, nhu cầu bé gái cao hơn, cần tới 20 mg sắt/ngày. Sắt có nhiều trong thịt, phủ tạng động vật: gan, tim, bầu dục…lòng đỏ trứng, đậu đỗ, rau xanh (rau ngót, rau muống...). Nếu thiếu sắt trẻ sẽ bị thiếu máu gây ra các triệu chứng mệt mỏi, hay quên, buồn ngủ, da xanh…
Kẽm: là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp sản sinh, thúc đẩy và điều hòa các hormon tăng trưởng IGF- I và hormon sinh dục, giúp trẻ có thể phát huy hết tiềm năng phát triển của cơ thể một cách toàn diện trong giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì, nhu cầu từ 10 - 20mg/ ngày, có nhiều trong thức ăn có nguồn gốc động vật.
I ốt: khoảng 15 mcg mỗi ngày. I ốt có nhiều trong hải sản và phải sử dụng muối i ốt khi nấu ăn. Thiếu i ốt trẻ sẽ bị bướu cổ, kém thông minh...
Các vitamin: Nhu cầu vitamin nhóm B, C, A, D, axit folic... cũng cao do tăng chuyển hóa năng lượng. Vì vậy, cần phải ăn đa dạng thực phẩm và là những thực phẩm tươi càng ít qua chế biến thì càng ít mất chất dinh dưỡng. Lượng rau cần thiết trong ngày là 300 - 500g.
Lưu ý: Ngoài chế độ dinh dưỡng hợp lý, cần khuyến khích trẻ có lối sống năng động, tập thể dục thể thao thường xuyên. Vì đây là giai đoạn cuối cùng để trẻ tăng tốc chiều cao, sau khi dậy thì trẻ sẽ cao rất chậm, thậm chí không tăng chiều cao nữa. Các môn thể thao giúp trẻ tăng chiều cao như bơi, chạy, đạp xe, bóng rổ, cầu lông…. Trẻ cũng cần ngủ đủ giấc, ngủ sâu, giúp hormon tăng trưởng tiết ra nhiều, kích thích xương dài hơn.
BS Minh Nguyệt