Trong cuộc đua chuyển đổi sang phương tiện xanh, hạ tầng sạc xe điện đang trở thành yếu tố then chốt.
Dù hạ tầng trạm sạc xe điện toàn cầu đã mở rộng đáng kể trong năm 2024, các chuyên gia quốc tế cảnh báo nếu không duy trì tốc độ tăng trưởng hạ tầng tương ứng với đà bán xe điện, nhiều thành phố và tuyến giao thông trên thế giới sẽ rơi vào “nút thắt cổ chai” trong vài năm tới.
Theo đó, mục tiêu chung của nhiều nước trong việc phát triển trạm sạc là nâng mật độ, tốc độ sạc, độ tin cậy và sự thuận tiện trong thanh toán.
Bức tranh trạm sạc toàn cầu
Năm 2024, thế giới đã bổ sung hơn 1,3 triệu điểm sạc công cộng, tăng trên 30% so với 2023. Riêng số trạm mới lắp đặt trong năm này đã tương đương toàn bộ lượng trạm sạc có vào năm 2020, theo báo cáo Global EV Outlook 2025 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA).
Trong đó, Trung Quốc chiếm khoảng 2/3 mức tăng trưởng kể từ năm 2020 và hiện nắm 65% số trạm sạc công cộng cùng 60% lượng xe điện toàn cầu.
Từ năm 2019, Trung Quốc đã có khoảng 1 triệu điểm sạc và chỉ mất 5-6 năm để mở rộng lên hơn 12 triệu điểm vào cuối 2024. Trong đó có hơn 3,3 triệu trạm sạc công cộng và gần 8,5 triệu điểm sạc tư nhân, trung bình mỗi tháng bổ sung thêm khoảng 72.000 trạm sạc công cộng.
Tại châu Âu, số trạm sạc công cộng tăng hơn 35% trong năm 2024, đạt hơn 1 triệu điểm, với 100.000 trạm sạc nhanh. Tuy nhiên, tốc độ triển khai không đồng đều giữa các quốc gia, phản ánh sự khác biệt về mức độ phổ cập xe điện và hạ tầng sạc tại lục địa già.
Trong khối EU, 11/27 nước ghi nhận số trạm sạc công cộng tăng trên 50% so với năm trước. Hà Lan dẫn đầu với hơn 180.000 trạm, tiếp theo là Đức (160.000 trạm) và Pháp (155.000 trạm). Áo bổ sung 8.000 trạm, chủ yếu nhờ chương trình trợ cấp kết thúc đầu 2025.
Tại Mỹ, số trạm sạc công cộng tăng 20% trong 2024, đạt gần 200.000 điểm. Trong khi đó, Ấn Độ tiếp tục thúc đẩy tiếp cận sạc công cộng với 40.000 trạm mới, Brazil cũng mở rộng nhanh chóng, đạt hơn 12.000 trạm sạc công cộng vào cuối 2024.
Tại Đông Nam Á, Thái Lan hiện sở hữu khoảng 11.000 trạm sạc công cộng cho xe điện, còn Singapore đặt mục tiêu tăng từ 7.100 điểm hiện nay lên 60.000 điểm vào năm 2030.
Đáng chú ý, tính đến cuối năm 2024, thế giới có 2 triệu trạm sạc nhanh (22-150 kW) và số trạm siêu nhanh (≥150 kW) đã tăng hơn 50%, chiếm gần 10% tổng số trạm nhanh toàn cầu.
Giải pháp luật hóa và chuẩn hóa hạ tầng
Để đạt mức tăng trưởng ấn tượng, tại châu Âu, EU đã chuyển từ khuyến nghị mềm sang nghĩa vụ pháp lý thông qua Quy định về Hạ tầng Nhiên liệu Thay thế (AFIR). Từ năm 2025, mỗi 60 km trên mạng lưới giao thông xuyên châu (TEN-T) phải có ít nhất một trạm sạc nhanh công suất 150 kW, theo báo cáo từ IEA.
AFIR cũng buộc các trạm sạc hiển thị giá theo kWh, chấp nhận thanh toán thẻ trực tiếp mà không cần đăng ký trước, và cung cấp dữ liệu mở về vị trí, tình trạng hoạt động theo chuẩn chung. Mục tiêu là tạo nên hệ sinh thái liên thông, minh bạch, tránh tình trạng người dùng phải tải đủ loại app, vật lộn với ma trận giá của từng nhà vận hành.
Tương tự, Na Uy - một trong những thị trường xe điện phát triển nhất thế giới - cũng đặt mục tiêu có trạm sạc nhanh mỗi 50 km trên đường chính và thực thi quyền pháp lý "quyền sạc" cho người dân sống chung cư. Trong khi đó, Hà Lan quy định bắt buộc các tòa nhà mới phải trang bị sẵn trạm sạc.
Ở Mỹ, mặc dù không theo mô hình pháp lý đồng bộ như châu Âu, chương trình NEVI (National Electric Vehicle Infrastructure Formula Program) lại yêu cầu nghiêm ngặt các dự án được tài trợ.
Trạm sạc xe điện Tesla tại trung tâm du lịch và trạm xăng Buc-ee ở Baytown, Texas (Mỹ). Ảnh: Reuters.
Các bang tiếp nhận vốn phải tuân thủ bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên bang: gồm tốc độ sạc tối thiểu, độ khả dụng (uptime), phương thức thanh toán chuẩn, và báo cáo dữ liệu định kỳ.
Trong đó, Văn phòng Giao thông và Năng lượng chung sẽ chịu trách nhiệm giám sát tiến độ, hỗ trợ kỹ thuật và bảo đảm tiêu chí hoạt động xuyên suốt. Nhờ vậy, hệ sinh thái sạc công cộng tại Mỹ đang dần minh bạch hóa.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia đưa ngành điện lực vào cuộc ngay từ đầu. Các công ty điện lực chia sẻ dữ liệu phụ tải, hỗ trợ nâng cấp máy biến áp, thử nghiệm giải pháp sạc thông minh (smart charging) và mô hình xe điện trả điện về lưới (V2G). Cách tiếp cận này giúp giảm áp lực cho lưới điện, đồng thời biến xe điện thành một phần giải pháp cân bằng năng lượng.
Vốn “mồi” và hợp tác công - tư
Phát triển hạ tầng sạc, đặc biệt trạm nhanh, có đặc thù chi phí đầu tư cao, nhưng hoàn vốn chậm. Vì vậy, nhiều quốc gia mạnh tay sử dụng vốn công làm đòn bẩy, để kéo vốn tư nhân tham gia vận hành lâu dài một mô hình công - tư.
NEVI của Mỹ triển khai theo mô hình tài trợ công thức, phân phối ngân sách liên bang cho các bang. Điều kiện để nhận vốn là: xây dựng trạm sạc dọc các các hành lang có lưu lượng phương tiện cao.
Tuy nhiên, các trạm nhận vốn phải đảm bảo chất lượng: đường vào phải dễ tiếp cận, trạm có đủ uptime, có hệ thống thanh toán mở, và phải cập nhật dữ liệu lên hệ thống quốc gia công khai.
Deutschlandnetz là chương trình của chính phủ Đức để lấp đầy những “vùng trắng” - nơi thương mại không hấp dẫn, nhưng quan trọng trong mạng lưới giao thông. Chính quyền liên bang đấu thầu xây trạm sạc nhanh, sau đó giao doanh nghiệp vận hành dài hạn, có hợp đồng dịch vụ gắn KPI về độ khả dụng, bảo trì và an toàn.
Nền tảng pháp lý của chương trình này là Chiến lược Hạ tầng Sạc 2030, giúp phối hợp chặt chẽ giữa ba cấp: liên bang, bang và địa phương.
Trong khi đó, Trung Quốc định hướng đưa “tổ hợp sạc - dịch vụ - bãi đỗ” vào trung tâm quy hoạch đô thị. Chính phủ cấp trợ cấp mục tiêu, ưu đãi đất đai và khuyến khích thanh toán số để tăng tiện ích.
Một trạm sạc tại thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc) vào tháng 2/2024. Ảnh: Reuters.
Tại các đô thị như Quảng Đông, Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải và Bắc Kinh, chính sách hỗ trợ lắp đặt bắt buộc tại các tòa nhà mới, giá điện ưu đãi và công nghệ sạc siêu nhanh, từ đó giúp giảm đáng kể nỗi lo về phạm vi di chuyển của xe điện.
Việt Nam giải bài toán trạm sạc thế nào?
So với nhiều quốc gia đi trước, Việt Nam bước vào xu hướng sử dụng ôtô điện muộn hơn nhưng tốc độ phát triển lại rất nhanh.
Những trạm sạc công cộng đầu tiên chỉ mới xuất hiện từ tháng 12/2021, song đến nay, mạng lưới đã mở rộng mạnh mẽ. Hiện cả nước có hơn 150.000 cổng sạc do V-Green - đối tác hạ tầng sạc của VinFast - triển khai, tương đương khoảng 15 cổng sạc trên mỗi 10.000 dân.
Trong cuộc họp ngày 5/8, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết đã tham khảo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời khảo sát thực tế các đơn vị sản xuất, nhập khẩu, lắp ráp và kinh doanh tại cả ba miền để xây dựng dự thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cho trụ sạc điện.
Trước đó, Bộ cũng đã ban hành 23 tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) liên quan, với nội dung tương thích với hệ thống tiêu chuẩn của ISO, IEC và các quy định của Ủy ban châu Âu.
Một trụ sạc bố trí tại đại lý BYD khu vực miền Nam. Ảnh: Phúc Hậu.
Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đang đẩy mạnh chiến lược đầu tư trạm sạc tại Việt Nam. TMT Motors - nhà phân phối ôtô điện Wuling - công bố kế hoạch xây dựng 30.000 trạm sạc trên toàn quốc từ nay đến năm 2030, sử dụng chuẩn sạc CCS2 vốn phổ biến với phần lớn mẫu xe điện hiện nay.
Hai thương hiệu Omoda và Jaecoo thuộc tập đoàn Chery (Trung Quốc) cũng bắt tay với EVG và Charge+ để phát triển mạng lưới trạm sạc nhanh, công suất 30-360 kW, tích hợp các tiện ích quản lý qua ứng dụng di động.
Thaco Auto cũng công bố kế hoạch mở rộng hệ thống trạm sạc nhanh DC, phối hợp cùng đối tác để triển khai tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và nhiều thành phố lớn trong năm nay.
Phương Linh