Chủ động Tổng khởi nghĩa chứ không phải "ăn may"
Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, là người đứng đầu Học viện Quốc phòng, nhà quân sự đã có nhiều năm nghiên cứu sâu về lịch sử, nghệ thuật quân sự, đồng chí có thể cho biết Đảng ta đã chủ động chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 như thế nào?
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa: Đảng ta và nhất là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ động chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa từ chính trị, tổ chức, LLVT, căn cứ địa đến kế hoạch và thời cơ. Nhờ đó, khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Đảng đã nhanh chóng phát động, tổ chức cho toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong cả nước, đưa đến thắng lợi nhanh gọn và ít đổ máu.
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa.
Cụ thể là, Đảng đã sớm lãnh đạo thành lập và phát triển các tổ chức cách mạng, như Việt Minh (năm 1941)-mặt trận đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi tầng lớp đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc; tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chuẩn bị về tổ chức lãnh đạo, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương được củng cố và mở rộng. Về LLVT, Đảng chỉ đạo tổ chức các đội vũ trang, tự vệ..., đặc biệt là thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (ngày 22-12-1944)-tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam; mở rộng căn cứ địa cách mạng, tập trung ở Việt Bắc và các vùng rừng núi, nông thôn-nơi an toàn để xây dựng lực lượng, huấn luyện quân sự và bảo vệ cơ sở cách mạng.
Theo dõi sát tình hình quốc tế và trong nước, đặc biệt là sự suy yếu của quân Nhật, thắng thế của phe Đồng minh và sự sụp đổ của phát xít Đức, tại Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945), Đảng chỉ đạo cụ thể việc tổ chức các ủy ban khởi nghĩa, chuẩn bị lực lượng, vũ khí và kế hoạch hành động khi thời cơ đến.
PV:Chúng ta đã tận dụng thời cơ cách mạng ra sao, thưa đồng chí?
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa: Tháng 8-1945, Đảng ta đã nhanh chóng tận dụng thời cơ cách mạng, biến “khoảng trống quyền lực” sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Trước đó, khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), bộ máy thực dân tan rã, trật tự cũ lung lay, Đảng kịp thời ra chủ trương “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, khởi phát cao trào kháng Nhật cứu nước. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh (ngày 15-8-1945), chính quyền bù nhìn hoang mang, quân Đồng minh chưa kịp vào giải giáp, Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến 15-8) khẩn cấp quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng minh tới; Quốc dân Đại hội Tân Trào (ngày 16-8) lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng (Chính phủ lâm thời), ban hành Quân lệnh số 1 “ở đâu chắc thắng, phải hành động ngay”; nhân dân sẵn sàng nổi dậy. Quân Nhật buông súng, Đảng điều động các đội Việt Nam Giải phóng quân và tự vệ địa phương đánh chiếm công sở, kho súng, đài phát thanh, nhà bưu điện... Ngay khi đánh chiếm xong, lập Ủy ban nhân dân lâm thời ở mỗi cấp, thay thế hoàn toàn bộ máy cũ; đồng thời, kêu gọi công chức cũ hợp tác, bảo đảm trật tự, phát hành giấy bạc Việt Minh, ổn định đời sống, tạo tính chính danh trong con mắt dân chúng và quốc tế.
Như vậy, điểm then chốt trong “tận dụng thời cơ”: Nhanh, ngay khi phát hiện “thế trống”, lập tức hành động; mệnh lệnh truyền đi từng giờ; Táo bạo, tin vào sức dân và sự tê liệt của đối phương; Kiên quyết-linh hoạt, tỉnh nào đủ lực giành chính quyền trước; kết hợp quân sự, chính trị, ngoại giao; mọi quyết định chớp nhoáng đều dựa trên tổ chức, lực lượng, căn cứ đã xây dựng kiên trì nhiều năm.
Nhờ vậy, chỉ trong các ngày từ 14 đến 30-8-1945, chính quyền cách mạng đã bao phủ cả nước và đi trước mọi can thiệp quốc tế, hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh “giành độc lập dân tộc” đúng vào khoảnh khắc thuận lợi nhất của lịch sử.
PV: Như vậy, Đảng ta đã có sự chủ động chuẩn bị và tận dụng thời cơ cách mạng rất chính xác, chứ không phải như các thế lực phản động cho rằng chúng ta “ăn may”. Đề nghị đồng chí nói rõ hơn về điều này?
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân-phong kiến và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, thời gian qua có một số luận điệu phản động, thiếu cơ sở lịch sử đã cố tình xuyên tạc, cho rằng đây chỉ là một cuộc "ăn may" khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, tạo ra khoảng trống quyền lực để phong trào cách mạng “vô tình” giành được chính quyền. Cách nhìn này là hoàn toàn phiến diện, bởi nó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta và quần chúng nhân dân trong suốt quá trình chuẩn bị và tiến hành cách mạng.
Như trên đã phân tích và thực tế chứng minh, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của một quá trình chuẩn bị chủ động, toàn diện và lâu dài do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Khi thời cơ lịch sử xuất hiện, Đảng đã sáng suốt, kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc; đồng thời lãnh đạo tổ chức đấu tranh chặt chẽ, phối hợp thống nhất giữa các lực lượng cách mạng, vận động được sự hưởng ứng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trọn vẹn và mau lẹ. Trong vòng chưa đầy nửa tháng, chính quyền nhân dân đã được thiết lập ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước-một kết quả không thể đạt được nếu chỉ dựa vào may mắn nhất thời.
Do đó, phải khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám không phải là một kết quả ngẫu nhiên hay "ăn may", mà là thành quả tất yếu của một quá trình đấu tranh kiên cường, chuẩn bị kỹ lưỡng và nắm bắt đúng thời cơ lịch sử của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng. Việc phủ nhận điều này không chỉ là sự sai lầm về mặt học thuật mà còn là hành vi xuyên tạc lịch sử, cần phải được phản bác một cách kiên quyết.
"Ứng vạn biến" để vượt qua sinh tử
PV: Chiến lược, sách lược, mưu kế của Đảng trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và sau khi giành được chính quyền, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” năm 1946 cụ thể ra sao, thưa đồng chí?
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự vững vàng của chính quyền cách mạng trong năm 1946 không phải là kết quả ngẫu nhiên, mà là biểu hiện tập trung của tư duy chiến lược sắc bén, sách lược linh hoạt và mưu lược chính trị tài tình của Đảng ta. Trong bối cảnh đất nước vừa giành độc lập, nhưng đang đứng trước vô vàn thử thách, Đảng đã thể hiện bản lĩnh của một lực lượng chính trị cách mạng trưởng thành, biết “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đưa dân tộc vượt qua một thời kỳ sinh tử của cách mạng.
Chiến lược lâu dài của Đảng là giải phóng dân tộc, xây dựng một nhà nước dân chủ nhân dân. Từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), Đảng xác định rõ rằng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là giữa dân tộc Việt Nam và phát xít Nhật, phải đoàn kết toàn dân tộc dưới ngọn cờ Mặt trận Việt Minh, tạm gác khẩu hiệu cách mạng xã hội để tập trung vào mục tiêu giành độc lập.
Khi thời cơ cách mạng xuất hiện (đặc biệt là sự đầu hàng của phát xít Nhật vào giữa tháng 8-1945), Đảng đã kiên quyết phát động Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, hành động thần tốc, có tổ chức và đúng thời điểm. Việc ra Quân lệnh số 1, thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, chỉ đạo khởi nghĩa ở từng địa phương đã tạo nên một cuộc “đánh nhanh, thắng gọn”, giành chính quyền trong cả nước. Đây là minh chứng điển hình cho sự kết hợp giữa chiến lược tích lũy lực lượng và mưu kế tận dụng thời cơ lịch sử một cách triệt để.
Sau ngày độc lập, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã lâm vào một tình thế đặc biệt hiểm nghèo: Thực dân Pháp quay lại xâm lược miền Nam, quân Tưởng vào miền Bắc, các đảng phái phản động chống phá, nền kinh tế kiệt quệ, chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta đã có sách lược đối nội-đối ngoại mềm dẻo nhưng kiên quyết, bảo vệ thành quả cách mạng trong khi chưa đủ điều kiện để phát động kháng chiến toàn diện.
Về đối ngoại, Đảng chủ trương “hòa để tiến”, sử dụng đòn bẩy ngoại giao để hóa giải nguy cơ chiến tranh hai đầu. Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 với Pháp là một bước đi chiến thuật, tạm thời công nhận sự hiện diện của Pháp ở miền Bắc để buộc quân Tưởng rút lui, đồng thời ta tranh thủ thời gian củng cố lực lượng. Đây là mưu kế “dĩ độc trị độc” cực kỳ táo bạo, cho thấy sự nhạy bén trong việc xoay chuyển thế cờ.
Về đối nội, Đảng chủ trương xây dựng tính chính danh và phát triển nội lực cách mạng. Việc tổ chức thành công Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946) để bầu ra Quốc hội, lập Chính phủ liên hiệp, đồng thời phát động các phong trào chống đói, chống dốt, cải tổ bộ máy hành chính... đã góp phần củng cố lòng tin của nhân dân, tạo thế chính trị vững chắc cho chính quyền mới.
Đặc biệt, trong khi mềm dẻo về ngoại giao, Đảng vẫn chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài, xây dựng hậu phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tổ chức LLVT. Điều đó cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị-quân sự-ngoại giao, đặt nền móng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sau này.
Như vậy, chiến lược lâu dài, sách lược linh hoạt và mưu kế ứng biến kịp thời chính là những nhân tố quyết định giúp Đảng ta lãnh đạo thành công Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và giữ vững chính quyền trong tình thế vô cùng hiểm nghèo năm 1946. Đó không chỉ là minh chứng cho bản lĩnh và trí tuệ của một Đảng cách mạng chân chính mà còn là bài học quý báu về nghệ thuật lãnh đạo cách mạng trong bối cảnh chuyển hóa chính trị đầy phức tạp.
“Lực, thế, thời, mưu” luôn là tư duy chiến lược
PV: Theo đồng chí, bài học về "lực-thế-thời-mưu" trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có giá trị như thế nào trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy hiện nay?
Thượng tướng, PGS, TS Trần Việt Khoa: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng điển hình cho nghệ thuật chỉ đạo cách mạng sắc sảo, toàn diện và linh hoạt của Đảng. Trong đó, tư duy chiến lược của Đảng ta được kết tinh qua 4 yếu tố cốt lõi: "Lực-thế-thời-mưu". Đây là bài học lịch sử có giá trị sâu sắc trong hiện thực hóa chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy hiện nay. Cụ thể là:
Trước hết, bài học về chủ động chuẩn bị, củng cố và phát huy nội lực quốc gia. Trong Cách mạng Tháng Tám, “lực” không chỉ đơn thuần là sức mạnh quân sự, mà là tổng hợp sức mạnh của toàn dân tộc: Khối đại đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ Việt Minh, LLVT nhân dân, căn cứ địa cách mạng và hệ thống chính trị thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Sức mạnh đó được hình thành từ quá trình chuẩn bị lâu dài, bền bỉ và kiên định về đường lối.
Hai là, bài học về tạo và giữ thế chủ động chiến lược. Trước khi Tổng khởi nghĩa nổ ra, Đảng đã chủ động xây dựng “thế” cách mạng thông qua việc mở rộng vùng giải phóng, tổ chức chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương và phát triển các tổ chức chính trị-xã hội quần chúng. Khi thời cơ đến, cách mạng đã đứng ở vị trí chủ động tuyệt đối, không rơi vào bị động trước các thế lực đối lập.
Ba là, nhạy bén với thời cơ, hành động kịp thời. Cách mạng Tháng Tám là minh chứng điển hình cho nghệ thuật nắm bắt thời cơ lịch sử. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi chính quyền thực dân phong kiến sụp đổ, quân Đồng minh chưa vào nước ta, Đảng đã kịp thời phát động khởi nghĩa trên cả nước. Nếu để thời cơ trôi qua, cục diện có thể xoay chuyển theo chiều hướng bất lợi.
Bốn là, linh hoạt, khôn khéo trong chỉ đạo và ứng xử. Sau khi giành chính quyền, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” năm 1946, Đảng đã vận dụng nhiều sách lược khôn khéo: Hòa hoãn với quân Tưởng, nhân nhượng có nguyên tắc với Pháp, tranh thủ quốc tế, xây dựng chính quyền hợp pháp, ổn định xã hội, đồng thời âm thầm chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Đây là biểu hiện tiêu biểu của “mưu”-nghệ thuật kết hợp giữa mềm dẻo và kiên định, giữa tạm thời và lâu dài.
Hiện nay, việc xây dựng và phát huy “lực” tiếp tục là yếu tố cốt lõi trong chiến lược quốc phòng. Đó là sức mạnh tổng hợp của quốc gia-dân tộc, trong đó nhân tố con người và lòng dân là trung tâm. Củng cố nội lực quốc gia gắn liền với phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân là nền tảng để ứng phó hiệu quả với mọi nguy cơ, cả truyền thống và phi truyền thống.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, “thế” không chỉ là thế trận trên bản đồ mà còn là vị thế chính trị pháp lý, vị trí địa chiến lược và uy tín quốc tế. Chủ động xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với "thế trận lòng dân", đồng thời nâng cao thế và lực trên trường quốc tế thông qua đối ngoại đa phương, hội nhập quốc tế và ngoại giao quốc phòng là cách để tạo thế răn đe hiệu quả và giữ vững chủ quyền một cách chủ động.
Thời cơ và nguy cơ thường đan xen, biến động nhanh chóng trong môi trường an ninh khu vực và quốc tế phức tạp. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải nâng cao năng lực dự báo chiến lược, phát hiện sớm, xử lý từ xa, không để bị bất ngờ về chiến lược. Đây chính là nội hàm cốt lõi của tư duy “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.
“Mưu” cần được hiểu là trí tuệ chiến lược trong xử lý các mối quan hệ quốc tế, vận dụng linh hoạt giữa đối đầu-đối thoại, đấu tranh-hợp tác. Đó là khả năng ứng xử thông minh trong ngoại giao, truyền thông, pháp lý quốc tế và quốc phòng, biết lựa thời-biết giữ thế-biết dùng lực đúng lúc.
Bài học “lực-thế-thời-mưu” trong Cách mạng Tháng Tám không chỉ là giá trị lịch sử mà còn là nguyên lý vận hành chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động, các nguy cơ xâm phạm chủ quyền, phá hoại từ bên trong, chiến lược bảo vệ Tổ quốc phải được thực hiện từ sớm, từ xa và toàn diện. Điều đó đòi hỏi sự kết hợp giữa trí tuệ chiến lược và bản lĩnh chính trị, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, ngay cả khi đất nước chưa lâm nguy.
PV:Trân trọng cảm ơn đồng chí!
CÁT HUY QUANG (thực hiện)