Trước bối cảnh toàn cầu biến động nhanh chóng, cách mạng công nghiệp 4.0, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, cạnh tranh chiến lược và xung đột địa chính trị gay gắt, xu hướng toàn cầu hóa… Việt Nam sau 40 năm đổi mới (1986 - 2025) vừa đứng trước cơ hội, vừa đối diện thách thức khốc liệt. Yêu cầu cấp bách đặt ra là đẩy mạnh cải cách thể chế thích ứng với xu thế thời đại xã hội mới - “mệnh lệnh từ tương lai”, bởi nếu “chậm trễ cải cách thể chế là có lỗi với dân tộc” - Tổng Bí thư Tô Lâm. Năm 2025, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt với tầm nhìn chiến lược, sáng suốt, bản lĩnh chính trị và tư duy đổi mới của Tổng Bí thư Tô Lâm, cuộc cách mạng cải cách thể chế đang được chỉ đạo triển khai quyết liệt, toàn diện và bài bản. Những định hướng mang tính đột phá trong quản trị quốc gia không chỉ chuẩn bị nền tảng cho Đại hội Đảng XIV, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới mà còn khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng.
Bài 1: Nhìn thẳng vào sự thật - Cải cách thể chế quyết định sức cạnh tranh quốc gia
Sau 40 năm đổi mới (1986 - 2025), Việt Nam đã chứng minh sức mạnh của cải cách thể chế: từ nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, vươn lên thành nền kinh tế có độ mở hàng đầu thế giới, với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 vượt 355 tỷ USD. Tuy vậy, “nút thắt” thể chế vẫn là lực cản phát triển. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: thể chế hiện đại, minh bạch, đồng bộ giúp quốc gia bứt phá; chậm đổi mới tất yếu tụt hậu. Với Việt Nam, cải cách thể chế là yêu cầu sống còn - “mệnh lệnh từ tương lai” để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm phát triển bền vững.
Đổi mới năm 1986 - Quyết sách lịch sử về cải cách thể chế
Nhìn lại năm 1986, Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng chưa từng có. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài khiến sản xuất trì trệ, hàng hóa khan hiếm, “tem phiếu” trở thành vật bất ly thân trong đời sống hằng ngày. Lạm phát phi mã lên tới hơn 700%, đồng lương công nhân không đủ mua vài cân gạo, nhiều nhà máy ngừng hoạt động, người dân xếp hàng dài chờ mua nhu yếu phẩm. Hệ thống quản lý cồng kềnh, thiếu hiệu lực bộc lộ rõ hạn chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung: “ngăn sông cấm chợ”, mọi sáng kiến bị bóp nghẹt trong khuôn khổ xin - cho.
Trước bối cảnh ấy Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã thể hiện bản lĩnh chính trị kiên định và tầm nhìn đột phá, dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, chỉ ra căn nguyên của khủng hoảng là sự lạc hậu, trói buộc của cơ chế quan liêu bao cấp. Từ đó, khẩu hiệu “Đổi mới hay là chết” được nêu ra như một tuyên ngôn lịch sử, mở đường cho tư duy cải cách thể chế mạnh mẽ chưa từng có.
Tư tưởng đổi mới ấy được cụ thể hóa trong Đại hội VI của Đảng (12/1986) mốc son đánh dấu cuộc cải cách toàn diện về thể chế kinh tế - xã hội. Báo cáo chính trị của Đại hội VI nêu rõ: xóa bỏ cơ chế bao cấp, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, mở cửa giao thương với thế giới, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên chiến lược.
Những năm sau đó, hàng loạt chính sách cụ thể được ban hành: Khoán 10 trong nông nghiệp (1988) giúp người nông dân làm chủ ruộng đất, đưa Việt Nam từ nước thiếu ăn trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; Luật Doanh nghiệp 1999 tạo “cơn mưa” đăng ký kinh doanh mới, giải phóng sức sản xuất tư nhân; Chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) từ năm 1987 đưa các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, Toyota, LG, Canon đến Việt Nam, tạo bước nhảy vọt trong công nghiệp hóa.
Thủ tướng Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề 1 về những nội dung cốt lõi, điểm mới trong các dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng XIV, tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, khóa XIII do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức (ngày 16/4/2025) đã nhấn mạnh: Đất nước thực hiện cuộc cách mạng về cấu trúc lại mô hình tổng thể và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương.
Nhờ quyết sách đúng đắn, Việt Nam dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 6 - 7%/năm trong suốt nhiều thập niên, đưa hơn 40 triệu người thoát nghèo, được Liên Hợp Quốc ghi nhận là “hình mẫu thành công trong xóa đói giảm nghèo”. Đến năm 2024, kim ngạch xuất khẩu vượt 355 tỷ USD, nền kinh tế có độ mở cao gấp hơn 200% GDP, Việt Nam trở thành thành viên tích cực của hơn 15 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Tinh thần “Đổi mới hay là chết” mà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng năm 1986 vẫn vang vọng đến hôm nay, nhắc nhở rằng cải cách thể chế luôn là yêu cầu sống còn trước những thách thức mới, vận hội mới. Đó là bài học quý giá cho Việt Nam trước bối cảnh toàn cầu biến động khó lường, điều kiện tiên quyết để Việt Nam bứt phá, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia thích ứng với thời đại số và chuyển đổi toàn cầu. Bài học của năm 1986 không chỉ là di sản lịch sử, mà còn là kim chỉ nam cho Việt Nam trên hành trình hiện thực hóa khát vọng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong tầm nhìn 2045.
Việt Nam sau 40 năm đổi mới: Thành tựu và điểm nghẽn
Kể từ Đại hội Đảng VI (1986), Đảng ta quyết tấm thực hiện công cuộc Đổi mới, cải cách thể chế kinh tế đã mở ra con đường phát triển ngoạn mục. GDP bình quân đầu người từ mức 100 USD năm 1986, đến năm 2024 đạt hơn 4.300 USD. Việt Nam hiện thuộc nhóm 20 nền kinh tế có thương mại lớn nhất thế giới, ngày càng hội nhập sâu rộng trên trường quốc tế, là điểm đến hấp dẫn của các tập đoàn đa quốc gia.
Tuy nhiên, theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2023 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Việt Nam mới đứng ở vị trí thứ 67/141 quốc gia. Các chỉ số về thể chế, bao gồm pháp quyền minh bạch, hiệu quả quản trị vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là so với các nước trong khu vực châu Á còn là khoảng cách xa như Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc... Thực tế kinh tế - xã hội nước ta cho thấy nhiều điểm nghẽn: Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật như: Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường… khiến hàng loạt dự án bị đình trệ. Cải cách thủ tục hành chính có tiến bộ, nhưng “trên nóng, dưới lạnh” vẫn là vấn đề phổ biến. Doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí để xin cấp phép, tiếp cận đất đai… gây khó khăn cho cả người dân và doanh nghiệp, làm mất cơ hội phát triển. Việc phân bổ nguồn lực chưa hiệu quả cũng là một vấn đề đáng quan ngại: khu vực kinh tế tư nhân, dù đóng góp hơn 40% GDP, vẫn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận vốn, đất đai, và các chính sách hỗ trợ…
Ông Nguyễn Duy Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Hưng Thịnh Phát, Đồng Nai, chia sẻ: Chúng tôi có nhiều hợp đồng quốc tế, nhưng nhiều khi thủ tục thông quan kéo dài, quy định thay đổi bất ngờ khiến chi phí đội lên gấp đôi. Điều này làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Một trong những điểm nghẽn lớn nhất chính là bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương còn cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng nấc trung gian… nên hoạt động giảm hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Sự chồng chéo giữa các cấp, các ngành không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách, mà còn kéo dài quy trình, làm giảm tốc độ ra quyết định và cản trở đổi mới sáng tạo.
Theo PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viên trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cần có cuộc cách mạng về thể chế để “thay máu nền kinh tế” (Trả lời phóng vấn Báo Đầu tư, ngày 5/4/2021). Nhiều chuyên gia kinh tế, quản trị đồng quan điểm thể chế đang là “điểm nghẽn của các điểm nghẽn”; nếu các nút thắt thể chế không được tháo gỡ ở cấp hệ thống, Việt Nam khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình và tiến lên nhóm thu nhập cao. Nhữngnhận định ấy không chỉ là cảnh báo về nguy cơ tụt hậu, mà còn là lời thúc giục phải hành động khẩn trương hơn, toàn diện hơn trong cải cách thể chế.
Vì vậy, Đảng ta nhìn thẳng vào thực tiễn và đặt ra yêu cầu cấp bách đặt ra là phải cải cách thể chế, tinh gọn, sắp xếp, sáp nhập bộ máy, bỏ những chồng chéo, giảm thiểu các tầng nấc trung gian, đưa hệ thống chính trị trở nên linh hoạt, tập trung, hiệu quả hơn.
Lão thành cách mạng, Đại tá, cựu chiến binh Nguyễn Khánh Trung, 96 tuổi, gần 70 năm tuổi Đảng, xóm Bó Lếch, phường Thục Phán, đại biểu mời dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng khóa XX, nhiệm kỳ 2025 - 2030: “Tôi đã sống gần một thế kỷ, chứng kiến những chặng đường cách mạng vĩ đại mà Đảng ta lãnh đạo từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến công cuộc đổi mới hôm nay. Trước mọi cam go, thử thách, Đảng ta luôn sáng suốt, dám nhìn thẳng vào sự thật để đưa ra những quyết sách đúng đắn, mang tầm chiến lược. Cuộc cải cách thể chế hiện nay do Đảng lãnh đạo toàn diện, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ đạo chính là sự kế thừa và phát triển tư duy đổi mới năm 1986 - một cuộc cách mạng về tư duy và tổ chức, đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, hướng tới xây dựng bộ máy tinh gọn, pháp luật minh bạch, quản trị vì dân và do dân. Cải cách thể chế là đổi mới tư duy cầm quyền của Đảng theo hướng kiến tạo, linh hoạt, thực tiễn; bởi sự trì trệ thể chế sẽ dẫn đến tụt hậu, thậm chí đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng. Tôi tin đây là bước đi tất yếu của Đảng ta để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
Lão thành cách mạng, Đại tá Nguyễn Khánh Trung, 96 tuổi, gần 70 năm tuổi Đảng, xóm Bó Lếch, phường Thục Phán chia sẻ tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ tiếp bước chặng đường đổi mới, kiến tạo Việt Nam hùng cường.
Đột phá thể chế - Yêu cầu sống còn của Việt Nam
Từ bài học kinh nghiệm Đổi mới năm 1986 của Đảng ta, trước bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược, cuộc cách mạng công nghệ 4.0… và tinh thần nhìn thẳng những bất cập, chồng chéo của thể chế chưa đáp ứng với xu thế mới, những nút thắt thể chế nếu không được xử lý triệt để sẽ kìm hãm khả năng bứt phá. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (2024), Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Chúng ta cần bước vào giai đoạn cải cách thể chế quyết liệt, tinh gọn bộ máy, minh bạch hóa pháp luật, hướng về cơ sở để bộ máy gần dân, sát dân, thúc đẩy sáng tạo và phát triển bền vững”.
Cải cách thể chế, theo Tổng Bí thư Tô Lâm là yêu cầu sống còn để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này đồng nghĩa với việc tinh gọn bộ máy hành chính, sáp nhập các bộ, ban, ngành, đơn vị để giảm sự cồng kềnh, chồng chéo, giảm nhiều khâu trung gian. Đối với các địa phương, chính quyền 3 cấp: tỉnh - huyện - xã quá cồng kềnh, cấp cơ sở gần dân nhất chưa được quan tâm sát dân, xa dân. Do đó, phải xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp, bỏ cấp huyện trung gian… Các bước đi này không chỉ nâng cao hiệu quả quản trị mà còn trực tiếp tháo gỡ rào cản cho doanh nghiệp, thu hút đầu tư và khơi thông nguồn lực xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế cũng minh chứng sức mạnh của cải cách thể chế của các nước như: Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản hay Trung Quốc đều đã thực hiện những cải cách thể chế - bộ máy quản trị quốc gia sâu rộng, minh bạch, linh hoạt, tạo đà cho đất nước vươn lên phát triển mạnh mẽ. Đây là bài học sống động cho Việt Nam, khẳng định rằng cải cách thể chế không phải lựa chọn mà là mệnh lệnh từ tương lai.
Trên thực tế tại Việt Nam (từ năm 2024 về trước), một số địa phương như: Quảng Ninh, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… đã triển khai thí điểm mô hình tinh gọn bộ máy, sáp nhập các phòng, ban trùng lắp, tăng cường quyền hạn cho cơ sở. Theo Báo cáo của Bộ Nội vụ năm 2024, nhiều nơi đã rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính xuống còn 70% so với trước, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân. Đây là minh chứng sống động cho thấy khi cải cách thể chế đi vào thực tiễn, hiệu quả kinh tế - xã hội được nâng cao rõ rệt.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhấn mạnh: “Nếu Việt Nam không đi trước trong cải cách thể chế, không tháo gỡ những nút thắt pháp lý và hành chính, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các quốc gia đi nhanh hơn. Đổi mới thể chế là nhiệm vụ sống còn, là nền tảng để phát triển bền vững và giữ vững vai trò, đường lối, cương lĩnh lãnh đạo của Đảng”.
Từ bài học của công cuộc Đổi mới 1986 và kinh nghiệm phát triển của các quốc gia châu Á, Đảng ta với tầm nhìn chiến lược và tinh thần đổi mới quyết liệt đã xác định cải cách thể chế là trụ cột chiến lược, yêu cầu sống còn để Việt Nam duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Đặc biệt dưới sự lãnh chỉ đạo sáng suốt của Tổng Bí thư Tô Lâm, năm 2025 cuộc cải cách thể chế đã được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ, bài bản đánh dấu bước ngoặt cải cách toàn diện: sắp xếp tinh gọn bộ máy hành chính, xây dựng chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, phục vụ nhân dân. Cải cách thể chế không chỉ là thay đổi cơ cấu tổ chức, mà là chuyển đổi tư duy lãnh đạo và phương thức quản trị quốc gia, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Từ quyết tâm chính trị ấy làm cơ sở để Việt Nam tiếp tục đổi mới có thể chế mạnh, tiến bộ vững bước vào kỷ nguyên mới, kiên định thực hiện đường lối của Đảng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng vào giữa thế kỷ XXI.
Bài 2: Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy - Gỡ bỏ những rào cản để phát triển
Nhóm phóng viên