Mô hình Laika bên trong bản sao vệ tinh Sputnik 2 tại Trung tâm Hàng không và Vũ trụ học ở Moskva. Ảnh: Getty Images
Theo trang vox.com, ngày 3/11/1957, cách đây 68 năm, các nhà nghiên cứu Liên Xô đã phóng Laika, một con chó lai nhỏ lông đen trắng, lên không gian bằng tàu Sputnik 2. Laika trở thành sinh vật sống đầu tiên bay quanh Trái đất, chứng minh rằng sự sống có thể chịu đựng quá trình phóng và môi trường ngoài không gian trong thời gian dài. Nhưng công nghệ đưa Laika trở về an toàn khi ấy chưa tồn tại, nên không bao giờ có hi vọng Laika sống sót.
Kỹ sư Liên Xô Yevgeniy Shabarov nhớ lại: “Sau khi đặt Laika vào khoang và trước khi đóng nắp, chúng tôi hôn mũi nó và chúc lên đường may mắn, biết rằng nó sẽ không bao giờ trở lại”.
Các nhà khoa học dự định để Laika chết êm ái sau khi ăn thức ăn tẩm thuốc độc sau một tuần trên quỹ đạo, nhưng câu chuyện không diễn ra như vậy. Trước chuyến bay định mệnh, các bác sĩ Liên Xô đã cấy cảm biến vào cơ thể Laika để theo dõi các chỉ số sinh tồn. Khi tàu phóng đi, nhịp thở của nó tăng gấp bốn, nhịp tim tăng gấp ba. Laika vẫn còn sống khi vào tới quỹ đạo, nhưng chỉ có một mình trong tâm trạng sợ hãi, nhìn qua cửa sổ về hành tinh phía dưới.
Sau đó, hệ thống điều hòa trong khoang gặp trục trặc, khiến nhiệt độ tăng lên hơn 40°C. Trong vòng 5 đến 7 giờ sau khi phóng, Laika chết vì sốc nhiệt và căng thẳng vì quá nóng và hoảng loạn. Nó không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Phi hành gia Mỹ Scott Kelly từng nói không gian có mùi kim loại cháy. Vậy với một con chó có khứu giác nhạy gấp 10.000 lần con người, mùi đó sẽ thế nào?
Trước khi con người bay vào không gian, giới khoa học lo ngại rằng chúng ta không thể sống sót trong tình trạng không trọng lực lâu dài, nên trước tiên họ thử nghiệm trên động vật. Liên Xô chọn chó, còn Mỹ chủ yếu dùng linh trưởng như khỉ và tinh tinh, trong đó nhiều con đã chết thảm.
Việc Laika trở thành “phi hành gia” đầu tiên cũng thật là ngẫu nhiên. Sau khi bị đội thu gom động vật hoang bắt giữ đầu năm 1957, không biết có phải do thấy Laika có những tố chất cần thiết của một “phi hành gia” hay không mà các nhà khoa học đã lựa chọn nó. Và thế là cô chó Laika, 3 tuổi, nặng 16 kg, bỗng nhiên trở thành “phi hành gia” đầu tiên của Liên Xô.
Laika được huấn luyện cho nhiệm vụ của mình. Ảnh: Getty Images
Để trở thành một “phi hành gia” thực thụ, Laika đã phải trải qua những cuộc thử nghiệm và tập luyện gắt gao. Nhằm quen dần với việc sống trong khoang lái chật hẹp của tàu Sputnik 2, Laika đã bị nhốt liên tục trong những chiếc lồng chật hẹp trong khoảng từ 10 đến 15 ngày.
Để quen với những rung động mạnh và tiếng gầm rú, Laika phải thường xuyên luyện tập với máy ly tâm mô phỏng quá trình tăng tốc của tên lửa đẩy, cũng như thiết bị mô phỏng tình trạng không trọng lực. Ngoài ra, Laika còn phải làm quen với việc mang quần áo đặc biệt cũng như tập dùng những loại thức ăn đóng hộp ở dạng lỏng.
Tất cả đã sẵn sàng cho sinh vật sống đầu tiên bay vào vũ trụ.
Bác sĩ Vladimir Yazdovsky, người chọn Laika làm nhiệm vụ này, đã mang nó về nhà chơi với các con mình đêm trước khi phóng nó lên vũ trụ. Ông nói: “Tôi muốn làm điều gì đó tốt cho nó. Nó chẳng còn bao nhiêu thời gian để sống”.
Trước Laika, các nhà khoa học Liên Xô từng phóng thành công một số con chó lên khu vực dưới quỹ đạo (tức là ra khỏi bầu khí quyển nhưng chưa đủ tốc độ quay quanh Trái đất). Laika không phải con cuối cùng chết trong các sứ mệnh vũ trụ, song hầu hết những chú chó sau này đều được cứu sống nhờ cơ chế thu hồi. Dù vậy, tất cả đều trải qua những bài huấn luyện khắc nghiệt, bị nhốt trong chuồng ngày càng nhỏ và nghe tiếng ồn mô phỏng tiếng tên lửa.
Người ta vẫn nhớ tới câu chuyện của Laika như biểu tượng tiến bộ khoa học, cần thiết để mở đường cho các phi hành gia con người. Laika chứng minh rằng sinh vật sống có thể chịu đựng điều kiện phóng và bay quanh Trái đất, khơi dậy cuộc chạy đua không gian của Mỹ.
Sứ mệnh của Laika cung cấp những dữ liệu sinh lý đầu tiên về tác động của việc du hành vũ trụ và việc phóng động vật vào không gian đã giúp con người có được kiến thức để có thể đưa người lên vũ trụ an toàn hơn. Sputnik 2 cùng thi thể của Laika đã tan rã khi đi vào bầu khí quyển Trái đất.
Mặc dù không có cơ hội sống sót trở về, nhưng sự hy sinh của Laika không hề uổng phí, bởi nó đã giúp chứng minh một điều quan trọng, đó là: sinh vật sống có thể tồn tại trong tình trạng không trọng lực ngoài không gian.
Cũng chính chuyến bay của Laika đã mở đường cho việc chuẩn bị phóng tàu có người lái không lâu sau đó, cũng như đem lại cho các nhà khoa học những số liệu đầu tiên về việc các sinh vật sống phản ứng như thế nào trong môi trường vũ trụ.
Laika trở thành một trong những con chó nổi tiếng nhất lịch sử. Để tưởng nhớ “phi hành gia” đặc biệt này, ngày 11/4/2008, các nhà chức trách Nga đã khai trương một công trình tưởng niệm Laika gần khu nghiên cứu quân sự tại Moskva, nơi họ đã chuẩn bị cho chuyến bay đầu tiên và cũng là cuối cùng của chó Laika.
Tem in hình chó Laika do Romania phát hành. Ảnh: Getty Images
Các nước đồng minh của Liên Xô từng phát hành tem tưởng niệm. Nhiều hình ảnh mô tả Laika là một chú chó hạnh phúc hoặc một liệt sĩ tự nguyện hy sinh cho khoa học. Theo nhà viết tiểu sử Amy Nelson, Laika trở thành biểu tượng bất tử của sự hy sinh và thành tựu nhân loại, truyền cảm hứng cho nhiều tượng đài và ca khúc. Một tạp chí thuần chay và một hãng phim hoạt hình mang tên Laika ra đời.
Rút kinh nghiệm từ Spunik 2, ngày 12/4/1961, Liên Xô đã phóng thành công tàu Phương Đông 1 đưa Yuri Gagarin - phi công vũ trụ đầu tiên của loài người lên quỹ đạo, đánh dấu sự mở đầu cho kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của nhân loại.
Con người nay không còn đưa chó hay linh trưởng lên không gian khi đã có những phi hành gia tự nguyện, nhưng thí nghiệm trên động vật vẫn tiếp diễn. Cá ngựa vằn, gấu nước, giun, ruồi, ếch và chuột vẫn được đưa lên Trạm Vũ trụ Quốc tế để nghiên cứu tác động của bức xạ và vi trọng lực, mô phỏng bệnh tật và tìm hiểu sinh sản trong môi trường không gian – điều kiện cần để lập căn cứ lâu dài ngoài Trái đất.
Thùy Dương/Báo Tin tức và Dân tộc