Thực trạng thừa cân béo phì ở trẻ em Việt Nam
Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng "nên có" so với chiều cao. Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hoặc toàn thể dẫn đến những ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Thừa cân, béo phì ở trẻ em gây nhiều hậu quả xấu tới sức khỏe như đái tháo đường type 2, rối loạn chuyển hóa lipid máu và tăng huyết áp. Khi trưởng thành những trẻ này có nguy cơ cao mắc bệnh béo phì, các bệnh mạn tính không lây và hội chứng chuyển hóa.
Một số nghiên cứu cho thấy có đến 30% trẻ béo phì sẽ trở thành người béo phì khi trưởng thành, kèm theo đó là các bệnh mạn tính không lây như tim mạch, huyết áp, đái tháo đường và ung thư...
Tình trạng béo phì học đường gia tăng nhanh. Ảnh minh họa
Tình trạng thừa cân, béo phì của trẻ em có xu hướng tăng nhanh trong giai đoạn gần đây. Theo kết quả tổng điều tra về dinh dưỡng 2019 – 2020 tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng từ 8,5% năm 2010 lên 19,0% năm 2020, trong một thập kỷ qua, tỷ lệ thừa cân, béo phì đã tăng lên hơn 2 lần, trong đó tỷ lệ thừa cân, béo phì của khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
Nguyên nhân trẻ thừa cân béo phì
Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, có nhiều nguyên nhân khiến trẻ bị thừa cân, béo phí. Một số nghiên cứu đã xác định vai trò của các yếu tố di truyền đối với nguy cơ của bệnh béo phì, có sự tương tác giữa các yếu tố nguy cơ từ môi trường sống và các yếu tố di truyền (gen).
Nghiên cứu mối liên quan giữa gen và lối sống trên trẻ em 6 – 11 tuổi của thành phố Hà Nội cho thấy một số gen (FTO và UCP2) có liên quan đến béo phì và các yếu tố kinh tế, xã hội, thói quen ăn uống.
Mất cân đối giữa năng lượng ăn vào và năng lượng tiêu hao: Ăn thừa năng lượng so với nhu cầu và hoạt động thể lực của trẻ là nguyên nhân chính yếu nhất của thừa cân, béo phì. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn ở nhà và ở trường tại một số khu vực thành thị hiện nay không cân đối, hợp lý, vượt quá nhu cầu khuyến nghị về năng lượng và chất đạm nhưng lại bị thiếu vi chất do trẻ không thích ăn rau, ăn các món ăn có nguồn gốc từ thủy hải sản. Cho dù là ăn các thực phẩm lành mạnh nhưng nếu ăn nhiều hơn nhu cầu của cơ thể thì cũng có thể gây thừa cân, béo phì.
Thức ăn nhanh là một trong những nguyên nhân gây béo phì ở trẻ.
Xu hướng tăng tiêu thụ thức ăn nhanh, thức ăn chế biến sẵn làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì: Các thức ăn nhanh, thức ăn có nhiều chất béo thường rất hấp dẫn trẻ em như gà rán, xúc xích, bánh kem, bơ, các món chiên rán... Các thức ăn này có đậm độ năng lượng cao, nhưng nghèo dinh dưỡng.
Xu hướng tăng tiêu thụ các thức ăn có nhiều đường cũng làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì như bánh, kẹo, nước ngọt, trà sữa... Thói quen ăn uống không lành mạnh, ăn nhanh, ăn nhiều, ăn vặt đều làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì. Phân bổ bữa ăn không hợp lý trong ngày cũng tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
Nhịn ăn sáng cũng làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì. Ăn quá nhiều vào bữa chiều và bữa tối khi cơ thể không cần nhiều năng lượng cho các hoạt động thể lực cũng làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
Một nguyên nhân khác là tình trạng lười vận động. Điều tra sức khỏe học sinh toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới cho thấy chỉ có 18,2% trẻ em 13 – 15 tuổi có hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ ngày ≥ 5 ngày/ tuần. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ em 13 – 15 tuổi có thời gian dành cho hoạt động tĩnh tại ≥ 3 giờ/ngày cao gần gấp đôi (35%).
Nghiên cứu cho thấy trẻ sống trong môi trường thành thị thiếu cơ hội vui chơi bên ngoài trong những điều kiện an toàn. Hai yếu tố góp phần quan trọng làm giảm hoạt động thể lực của trẻ em thành thị là trẻ không có không gian để hoạt động thể lực (đi bộ, khu vui chơi công cộng) và chương trình tivi phát sóng liên tục làm trẻ ngồi xem thụ động, ngay cả với trẻ nhỏ.
Một số nghiên cứu cho thấy béo phì liên quan với lối sống tĩnh tại, thời gian xem tivi và chơi game từ 3 tiếng trở lên trong một ngày làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì
Trẻ thừa cân, béo phì có nguy cơ cao bị rối loạn chuyển hóa lipid máu và tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm khi trưởng thành như: bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ... Trẻ béo phì còn có nguy cơ rối loạn chuyển hóa đường và mắc bệnh đái tháo đường type 2.
Thừa cân, béo phì đặc biệt là béo phì có ảnh hưởng xấu tới hệ xương của trẻ: Thừa cân, béo phì khiến trẻ đi lại chậm chạp hơn. Các chứng đau nhức là triệu chứng phổ biến ở trẻ béo phì, vì khi trọng lượng cơ thể càng tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn, nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối khiến trẻ đau nhức, mỏi chân tay, khớp gối và lưng.
Một số trường hợp béo phì nặng còn gây cong xương chày hoặc vẹo cột sống ở trẻ em Trẻ thừa cân, béo phì khi học tập, làm việc sẽ chóng mệt hơn, nhất là ở môi trường nóng và thường phản ứng chậm chạp hơn so với trẻ bình thường.
Những trẻ bị thừa cân, béo phì phải trải qua nhiều khó khăn về mặt tâm lý hơn những trẻ có cân nặng bình thường, trẻ dễ bị mặc cảm, tự ti, ảnh hưởng đến quan hệ bạn bè. Một số nghiên cứu cho thấy trẻ béo phì có nguy cơ dậy thì sớm hơn trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường. Trẻ nữ vị thành niên bị béo phì có thể gặp những rối loạn về kinh nguyệt, như kinh nguyệt không đều
Dinh dưỡng phòng ngừa thừa cân béo phì
Đảm bảo chế độ ăn đa dạng, lành mạnh, giàu vi chất dinh dưỡng cho trẻ ở nhà và ở trường học, bữa ăn chính (trưa và tối) cần có trên 10 loại thực phẩm (2-3 loại thực phẩm cung cấp chất đạm; 3-5 loại rau củ); ăn đa dạng, cân đối theo các tầng của Tháp dinh dưỡng hợp lý cho trẻ 12-14 tuổi, đặc biệt cần đảm bảo đủ lượng rau củ quả. Lựa chọn thực phẩm lành mạnh, giàu dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày.
Sữa và các chế phẩm từ sữa là thực phẩm lành mạnh, cần thiết cho sự phát triển của lứa tuổi học đường.
Hạn chế thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm có nhiều đường, nhiều chất béo, không ăn thường xuyên các đồ chiên rán nhiều dầu mỡ như gà chiên, khoai tây chiên, xúc xích, bánh ngọt, bánh kẹo, nước ngọt có ga và không có ga… Uống đủ nước hàng ngày. Hoạt động thể lực 60 phút/ngày. Không ăn quá nhanh, nhai kỹ, hạn chế ăn vặt. Nên thường xuyên chọn các phần ăn nhỏ. Nếu phần ăn lớn, hãy chia bớt cho bạn hoặc người thân trong gia đình.
Nên sử dụng sữa không đường hoặc ít đường, với những trẻ bị béo phì nên sử dụng sữa tách béo, không đường. Phân bố bữa ăn hợp lý trong ngày giữa ở nhà và ở trường: Ăn nhiều hơn vào bữa sáng và bữa trưa, ăn ít hơn vào bữa tối. Bữa phụ sáng và chiều nên sử dụng sữa và chế phẩm sữa. Không ăn muộn vào buổi tối, cũng như ăn uống bữa phụ trước khi đi ngủ
Cha mẹ đồng hành với nhà trường trong giáo dục dinh dưỡng và giúp trẻ hình thành các thói quen ăn uống lành mạnh, nếp sống năng động, tích cực tốt cho sức khỏe.
Lan Tường