Phân cấp, phân quyền mạnh mẽ trong triển khai đầu tư
Chiều 13/2, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh cho biết, đường sắt đô thị tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu xây dựng từ năm 2007, tuy nhiên, tiến độ triển khai chậm, không đáp ứng được yêu cầu do quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là các quy định về trình tự, thủ tục đầu tư, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện.
Là trục “xương sống” của hệ thống vận tải công cộng đô thị nên đầu tư phát triển đường sắt đô thị là tất yếu khách quan, giải pháp quan trọng, căn cơ để phát triển đô thị hiện đại, bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Do vai trò quan trọng đó, hai thành phố đã phối hợp với Bộ Giao thông vận tải xây dựng Đề án - Bộ trưởng Giao thông vận tải nhấn mạnh.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh trình bày Tờ trình.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh, việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội nhằm huy động mọi nguồn lực hợp pháp, rút ngắn tối đa tiến độ thực hiện, khai thác có hiệu quả nguồn lực quỹ đất; phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho hai Thành phố trong việc triển khai đầu tư, phát huy tính chủ động, tích cực của hai Thành phố; hiện thực hóa các Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị.
Việc xây dựng Nghị quyết đảm bảo các quan điểm: phù hợp Hiến pháp, không trái với điều ước quốc tế; phù hợp với các chiến lược, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị; đơn giản hóa trình tự, thủ tục, trên quan điểm Trung ương xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, đảm bảo kiểm soát về mặt vĩ mô, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, rút ngắn trình tự, thủ tục để “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; huy động tối đa nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để hai Thành phố thực hiện thành công mục tiêu phát triển hệ thống đường sắt đô thị bảo đảm hiện đại, bền vững.
Toàn cảnh phiên họp.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, dự thảo Nghị quyết gồm 11 Điều, cụ thể: Điều 1 về phạm vi điều chỉnh; Điều 2 về đối tượng áp dụng; Điều 3 về giải thích từ ngữ; Điều 4 về huy động nguồn vốn; Điều 5 về trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư; Điều 6 về phát triển đô thị theo mô hình TOD; Điều 7 về phát triển công nghiệp đường sắt, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; Điều 8 về chính sách về vật liệu xây dựng và bãi đổ thải; Điều 9 về các quy định áp dụng riêng cho Thành phố Hồ Chí Minh; Điều 10 về tổ chức thực hiện; Điều 11 về điều khoản thi hành.
Dự thảo Nghị quyết quy phạm hóa 6 nhóm chính sách đặc thù, đặc biệt trong Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua gồm nhóm chính sách về: huy động nguồn vốn; trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư; phát triển đô thị theo mô hình TOD; phát triển công nghiệp đường sắt, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực; chính sách vật liệu xây dựng và bãi đổ thải; các quy định áp dụng riêng cho Thành phố Hồ Chí Minh.
Tránh khoảng trống pháp lý trong triển khai huy động nguồn vốn
Trình bày báo cáo thẩm tra tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, các nhóm chính sách đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa các chính sách đặc thù, đặc biệt đã được Quốc hội cho phép trong thời gian qua tại Luật Thủ đô, Nghị quyết số 172/2024/QH15 về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam. Do đó, Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với đề xuất của Chính phủ.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra.
Đối với một số chính sách cụ thể, Thường trực Ủy ban Kinh tế có một số ý kiến như sau:
Về huy động nguồn vốn, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho rằng, tại điểm a khoản 1 Điều 4 dự thảo Nghị quyết cần làm rõ trong trường hợp giảm hoặc bổ sung thêm dự án so với danh mục dự án kèm theo Nghị quyết này thì số vốn ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương để thực hiện dự án sẽ được xác định như thế nào để tránh khoảng trống pháp lý trong quá trình triển khai, thực hiện.
Về lập tổng mức đầu tư, dự thảo gói thầu, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, Nghị quyết xác định có 2 loại dự án là dự án đường sắt đô thị và dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD (mô hình phát triển đô thị lấy định hướng phát triển giao thông công cộng làm cơ sở quy hoạch phát triển). Theo đó, tại điểm a xác định loại dự án được áp dụng chính sách là dự án đường sắt đô thị và dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD, tuy nhiên tại điểm b, c lại chỉ xác định là dự án. Mặt khác, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam chỉ cho phép áp dụng chính sách này đối với dự án tuyến đường sắt, không bao gồm dự án thuộc khu vực TOD. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đề nghị cần thuyết minh, làm rõ hơn nữa về nội dung này.
Các đại biểu tại phiên họp.
Về các quy định áp dụng riêng cho thành phố Hồ Chí Minh, theo ông Vũ Hồng Thanh, các quy định này cơ bản được kế thừa tại Luật Thủ đô, do đó đề xuất của Chính phủ là có cơ sở. Tuy nhiên, việc quy định “Ủy ban nhân dân Thành phố được phép tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử dụng đất để chỉnh trang phát triển đô thị theo định hướng phát triển giao thông công cộng theo đồ án thiết kế đô thị riêng, đồ án quy hoạch đô thị vùng phụ cận các nhà ga thuộc tuyến đường sắt đô thị được cấp thẩm quyền phê duyệt” là chưa thống nhất với các quy định về dự án đường sắt đô thị, dự án đường sắt đô thị theo mô hình TOD tại Điều 3 dự thảo Nghị quyết.
Bên cạnh đó, khoản 26 Điều 79 Luật Đất đai đã quy định về các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, trong đó có các dự án vùng phụ cận các điểm kết nối giao thông và các tuyến giao thông có tiềm năng phát triển, để làm cơ sở cho thành phố triển khai thực hiện các dự án chỉnh trang đô thị.
“Do đó, quy định nêu trên là không cần thiết”, ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh. Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị rà soát kỹ lưỡng để tránh chồng chéo, mâu thuẫn trong quá trình áp dụng pháp luật về đất đai.
Thiên An