Tôi có xem qua nội dung một số chủ đề ở một số cấp lớp của 3 tỉnh trước đây biên soạn có nhiều khác biệt từ cấu trúc đến việc chọn ngữ liệu - số liệu, bởi nội dung từ địa lý, lịch sử, văn học đến âm nhạc, mỹ thuật, người biên soạn chọn tư liệu mang đậm tính địa phương. Có thể đối chiếu vài nét ở khối lớp 11, như chủ đề Địa lý. Ở tỉnh Đắk Nông, có chủ đề Địa lý du lịch (nhưng viết theo từng bài) và có đầy đủ số liệu, bản đồ, nhưng không thấy bản biểu; đặc biệt có chủ đề: Thị trường lao động, việc làm, trong khi chủ đề này ở Bình Thuận và Lâm Đồng đưa vào khối 12... Khối 11 ở Lâm Đồng (cũ) không có chủ đề Du lịch riêng biệt mà đưa vào một phần về hoạt động du lịch trong chủ đề Hoạt động dịch vụ, có thêm chủ đề Biến đổi khí hậu (chủ đề này Bình Thuận đưa vào khối 10). Ở Bình Thuận có chủ đề Địa lý du lịch, nhưng không phân theo bài như Đắk Nông, có thêm chủ đề Thị trường tiêu dùng và Ý tưởng kinh doanh (Đắk Nông và Lâm Đồng không có). Có một điều tất yếu là việc sử dụng số liệu trong tài liệu của 3 tỉnh (cũ) không đồng bộ(*). Về chủ đề môn Ngữ văn địa phương, cũng có nhiều khác biệt về cấu trúc lẫn ngữ liệu tuyển chọn. Như ở Đắk Nông, đưa vào chủ đề 3, ở Lâm Đồng đặt vị trí chủ đề 2, còn Bình Thuận ở vị trí chủ đề 4. Cách đặt tên cho chủ đề cũng khác. Theo cấu trúc, Đắk Nông không có bài khái quát như Lâm Đồng, Bình Thuận.
Tài liệu Đắk Nông với chủ đề 3: Văn học viết Đắk Nông, nêu yêu cầu cần đạt và đi vào từng bài. Bài 1: Giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu của văn học viết Đắk Nông. Trong đó, văn bản 1: Phố thị hoa vàng, thơ của Trần Lê Châu Hoàng; văn bản 2: Rừng xa, truyện ngắn của Bá Canh. Bài 2: Thực hành viết bài nghị luận về tác phẩm văn học viết Đắk Nông. Bài 3: Thuyết trình về một tác phẩm văn học viết của Đắk Nông.
Tài liệu Lâm Đồng với Chủ đề 2: Văn học viết Lâm Đồng trước 1975, nêu mục tiêu và triển khai nội dung: A. Khái quát văn học viết Lâm Đồng trước 1975, với 2 đề mục: I. Bối cảnh lịch sử và tiền đề văn hóa, xã hội; II. Quá trình phát triển của văn học Lâm Đồng trước 1975, có các tiểu mục: 1. Giai đoạn 1893 - 1945: thời kì khai mở của Đà Lạt - Lâm Đồng, với những ghi chép hầu như chỉ có trong nhật kí, hồi kí của những vị khách đặc biệt, là một số người Pháp trong quá trình phát hiện ra cao nguyên Lang Biang và xây dựng Đà Lạt như A. Yersin, P. Doumer, E. Tardif, Bouvard, Chemineau, Duclaux...; 2. Giai đoạn 1946 – 1954: Nhắc đến Thu Lâm, Mai Xuân Ngọc; 3. Giai đoạn 1954 - 1975, giới thiệu: a. Bộ phận văn học yêu nước, cách mạng; b. Bộ phận văn học “hợp pháp” trong lòng đô thị. B. Đọc hiểu văn bản: Văn bản Trăng mờ Đà Lạt (Hàn Mặc Tử) và Đọc mở rộng: Tình mặc khách (Trích từ sách biên khảo Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ, Nguyễn Vĩnh Nguyên, NXB Trẻ, 2020)...
Ở Bình Thuận với chủ đề 4: Tổng quan văn học viết Bình Thuận trước năm 1975, nêu mục tiêu rồi đi vào triển khai chủ đề. Cấu trúc có 5 bài: Bài 1: Vài nét khái quát về văn học viết tỉnh Bình Thuận trước năm 1975, phân làm 3 giai đoạn: I. Giai đoạn từ năm 1697 đến cuối thế kỷ XIX: Giới thiệu một số tác giả: Nguyễn Hương, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và những tác giả góp phần làm nên diện mạo một thời văn học Bình Thuận: Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Bùi Quang Diêu,… II. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng Tháng Tám 1945: Giới thiệu một số tác giả tiêu biểu: Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô (ông là người giới thiệu thầy giáo Nguyễn Tất Thành đến dạy học ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết và đưa vào Cảng Nhà Rồng). III. Giai đoạn từ sau năm 1945 đến năm 1975: Giới thiệu quá trình thành lập Chi hội Văn hóa kháng chiến Bình Thuận (1950), đề cập đến các tác giả: vùng giải phóng: Phan Minh Đạo, Hồ Phú Diên, Nguyên Nam, Nam Hà, Thu Lâm, Lê Xuân; vùng đô thị: Đỗ Hồng Ngọc, Từ Thế Mộng, Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Bắc Sơn,… Bài 2 - Đọc hiểu: Thắng cảnh quê hương qua thơ Nguyễn Thông: Bình Nhân sa mạc (Bãi cát Bình Nhân), Bạch hồ nhàn hành (Đi dạo Bạch hồ - tức Bàu Trắng, một thắng cảnh du lịch ngày nay). Bài 3 - Đọc hiểu: Vỡ tổ (Truyện ngắn - Yên Hy Ba). Đọc mở rộng: Bài 4: Ở đời như một nhà thơ Đông phương (Thơ – Nguyễn Bắc Sơn). Bài 5: Trận phục kích “Đá Ông Địa” (Kí – Hồ Phú Diên).
Đối chiếu chỉ mới 1 khối lớp 11, đã có những nét khác biệt đến vậy. Nên việc tất yếu kịp thời là sớm tổ chức biên soạn lại Tài liệu giáo dục địa phương từ lớp 1 đến lớp 12 một cách khoa học, mang tính hệ thống quá trình phát triển lịch sử trên không gian địa lý của địa phương Lâm Đồng (mới), nhưng tránh rơi vào hiện tượng chọn các chủ đề rồi lắp ghép theo cách chia đều ở các Tài liệu giáo dục địa phương của 3 tỉnh cũ.
(*): Nội dung này có tham khảo ý kiến của thầy Lê Phương - người tham gia biên soạn Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Bình Thuận môn Địa lý (trước đây).
Võ Nguyên