Cần gần 16.000 tỷ đồng đầu tư cảng biển Nghệ An đến năm 2030

Cần gần 16.000 tỷ đồng đầu tư cảng biển Nghệ An đến năm 2030
11 giờ trướcBài gốc
Đến 2030, cảng biển khu vực sẽ có 9 bến cảng với ít nhất 27 cầu cảng
Theo dự thảo quy hoạch, cảng biển Nghệ An gồm các khu bến Nam Cửa Lò, Bắc Cửa Lò, Đông Hồi, Bến Thủy, Cửa Hội, các bến phao, khu neo đậu chuyển tải, chờ đợi cầu và tránh trú bão.
Dự kiến đến năm 2030, cảng biển Nghệ An sẽ có tổng số 9 bến cảng, gồm từ 27-29 cầu cảng, đáp ứng cho lượng hàng hóa tới hơn 26 triệu tấn (Ảnh minh họa).
Mục tiêu đến năm 2030, cảng biển khu vực đáp ứng cho lượng hàng hóa thông qua từ 22,25 - 26,75 triệu tấn (trong đó hàng container từ 0,18 - 0,24 triệu Teu); hành khách từ 17,6 - 21,7 nghìn lượt khách.
Khu vực sẽ có tổng số 9 bến cảng, gồm từ 27 - 29 cầu cảng với tổng chiều dài từ 5.151 - 5.676m (chưa bao gồm các bến cảng, cầu cảng khác).
Tầm nhìn đến năm 2050, cảng biển Nghệ An tiếp tục phát triển các bến cảng mới đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân từ 3,6 - 4,5%/năm.
Tổng nhu cầu sử dụng đất theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng 290,30ha (chưa bao gồm các khu vực phát triển các khu công nghiệp, logistics... gắn liền với cảng). Tổng nhu cầu sử dụng mặt nước khoảng 24.852ha (đã bao gồm diện tích vùng nước khác trong phạm vi quản lý không bố trí công trình hàng hải).
Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển Nghệ An đến năm 2030 khoảng 15.993 tỷ đồng, gồm nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hảng hải công cộng khoảng 1.943 tỷ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng 14.050 tỷ đồng.
Hàng qua cảng đang tăng dần đều nhưng vẫn chưa đạt kỳ vọng
Theo thống kê của Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, năm 2024, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Nghệ An đạt 14,31 triệu tấn, chiếm 12,3% tổng lượng hàng của nhóm cảng biển số 2.
Cơ cấu hàng hóa chủ yếu là hàng khô, rời chiếm đến 83,64% (11,97 triệu tấn), còn lại là container và hàng lỏng (2,34 triệu tấn). Giai đoạn 2020-2024, tốc độ tăng trưởng hàng hóa đạt 6,4%/năm.
Hiện, cảng biển Nghệ An có 25 cầu cảng cứng (tổng chiều dài khoảng 3.649m) và 1 bến phao. Khu vực đã tiếp nhận tàu hàng rời đến 70.000 tấn tại cảng chuyên dùng Vissai (Bắc Cửa Lò) và tàu tổng hợp, container đến 30.000 tấn tại Nam Cửa Lò.
Tuy nhiên, mặc dù lượng hàng hóa tăng dần qua các năm (từ 11,6 triệu tấn năm 2020 lên 14,31 triệu tấn năm 2024), nhưng mức này mới chỉ đạt 71,55% so với dự báo tại Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Năm 2024, khu bến Nam Cửa Lò đạt sản lượng 4,85 triệu tấn, tương ứng 88,18% công suất quy hoạch đến năm 2020 (5,5 triệu tấn). Trong khi đó, khu bến Bắc Cửa Lò đã vượt công suất, đạt 8,65 triệu tấn, so với quy hoạch 2020 là 6,25 triệu tấn.
Phần lớn hàng hóa hiện vẫn thông qua 2 khu bến này, phản ánh xu hướng khai thác tập trung, nhưng cũng cho thấy sự mất cân đối trong quy hoạch và vận hành thực tế.
Dù có những bước phát triển, cảng biển Nghệ An vẫn đối mặt nhiều hạn chế. Đáng chú ý là tình trạng thiếu đồng bộ giữa tiến trình quy hoạch và thời gian triển khai thực tế các dự án đầu tư xây dựng cảng. Nhiều bến cảng được quy hoạch nhưng chưa được triển khai đúng tiến độ do vướng mắc về thủ tục, vốn và sự phối hợp giữa các cấp, ngành.
Bên cạnh đó, việc thỏa thuận vị trí đổ đất nạo vét còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ nạo vét các bến và duy tu tuyến luồng hàng hải. Cụ thể, tuyến luồng hàng hải Cửa Lò đã có chủ trương nạo vét xuống cao độ -9m, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện.
Theo Cục Hàng hải và Đường thủy VN, nguyên nhân một phần do quy hoạch cảng biển không cùng thời điểm với các quy hoạch chuyên ngành khác, dẫn đến khó khăn trong phối hợp thực hiện.
Ngoài ra, nguồn lực đầu tư từ Nhà nước còn hạn chế, chưa đủ đáp ứng cho hạ tầng hàng hải công cộng. Một số nhà đầu tư tư nhân cũng chưa đảm bảo năng lực về tài chính, công nghệ và quản lý, dẫn đến hiệu quả khai thác tại một số bến chưa cao.
Hoàng Anh
Nguồn Xây Dựng : https://baoxaydung.vn/can-gan-16000-ty-dong-dau-tu-cang-bien-nghe-an-den-nam-2030-192250607114003784.htm