Cần làm gì để đưa 'cỗ xe' KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 về đích thắng lợi?

Cần làm gì để đưa 'cỗ xe' KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024 về đích thắng lợi?
một giờ trướcBài gốc
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm
Nền kinh tế toàn cầu bắt đầu chuyển hướng tích cực với lạm phát giảm, tăng trưởng thương mại mạnh hơn
Năm 2024, kinh tế Việt Nam đã đi được 3/4 quãng đường trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục nhưng bấp bênh, đối mặt với nhiều rủi ro, bất định. Bất ổn địa chính trị và xung đột quân sự gây ra biến động mạnh về giá xăng dầu, giá cước vận tải, giá nguyên vật liệu, kéo dài thời gian vận chuyển và giao hàng, tạo áp lực lên lạm phát và tăng trưởng toàn cầu chậm lại.
Dự báo triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cùng Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đều cảnh báo về những rủi ro đối với thương mại toàn cầu do xung đột khu vực, bất ổn kinh tế, đặc biệt chính phủ các nước tập trung vào an ninh quốc gia, thúc đẩy khả năng tự lực tự cường, trợ cấp cho các công ty trong nước.
Bầu cử Tổng thống Mỹ vào tháng 11 tới cũng có thể gây bất ổn cho thương mại toàn cầu khi Cựu Tổng thống Donald Trump cam kết áp dụng mức thuế tăng 10% đối với tất cả các đối tác thương mại của Mỹ nếu ông tái đắc cử.
Trong quý II/2024, thương mại toàn cầu đã có bước phục hồi khá ngoạn mục. Với cả năm 2024, IMF dự báo thương mại toàn cầu gồm hàng hóa và dịch vụ tăng khoảng 3%; WTO dự báo thương mại hàng hóa tăng 2,6% sau khi giảm 1,2% trong năm ngoái.
Biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, tình hình mùa vụ không thuận tại các vùng sản xuất lương thực chủ yếu dẫn tới giá lương thực thế giới trong 9 tháng đầu năm 2024 tăng 5 tháng liên tiếp từ tháng 3 đến tháng 7, giảm nhẹ 0,3% trong tháng 8. Ngày 4/10, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc công bố chỉ số giá lương thực thế giới tháng 9/2024 tăng từ 120,7 điểm trong tháng 8 lên 124,4 điểm, mức cao nhất kể từ tháng 7/2023 và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái, tăng mạnh nhất trong 18 tháng qua.
Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại, GDP quý I/2024 tăng 1,4%, bật tăng trở lại ở mức 3% trong quý II/2024 do chi tiêu dùng cá nhân tăng mạnh. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành công nghiệp giảm xuống mức 46,8 điểm trong tháng 7/2024, mức thấp nhất kể từ tháng 11/2023; tăng lên mức 47,2 điểm trong tháng 8/2024. Ngược lại, chỉ số PMI ngành dịch vụ lạc quan hơn, đạt 51,5 điểm vào tháng 8/2024; chỉ số niềm tin người tiêu dùng tăng tháng thứ ba liên tiếp.
Lạm phát tiếp tục hạ nhiệt trong tháng 8/2024. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số CPI tăng 2,5%, lạm phát cơ bản tăng 3,2%. Mặc dù lạm phát chung tiếp tục hạ nhiệt, nhưng chi phí liên quan đến nhà ở vẫn tăng cao ở mức 5,2%. Tỷ trọng chi cho nhà ở chiếm khoảng 1/3 tổng số chi tiêu tính trong chỉ số CPI của hộ gia đình. Điều này phản ánh lạm phát tại Mỹ vẫn dai dẳng nhưng khá gần mức mục tiêu.
Thị trường việc làm tại Mỹ trong tháng 8/2024 không lạc quan như dự báo, chỉ tạo được 142 nghìn việc làm, thấp hơn 19 nghìn việc làm so với kỳ vọng; đáng chú ý, lĩnh vực sản xuất giảm 24 nghìn việc làm.
Các thông tin về chỉ số PMI, tăng trưởng, việc làm và lạm phát là căn cứ để ngày 18/9/2024 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm 0,5% lãi suất, đưa lãi suất cơ bản xuống mức 4,75%- 5,0% để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc cắt giảm 0,5% lãi suất đặt nền kinh tế Mỹ vào tình trạng nguy cơ suy thoái và nguy cơ lạm phát bùng trở lại là ngang nhau.
Kinh tế châu Âu yếu hơn so với dự báo, triển vọng kiểm soát lạm phát không chắc chắn, tốc độ tăng lương của Khu vực EU cao gấp đôi mức lạm phát. Trong 9 tháng đầu năm 2024, Ngân hàng Trung ương châu Âu đã hai lần cắt giảm lãi suất với mỗi lần cắt 0,25%, đưa lãi suất xuống mức 3,5%.
Kinh tế Trung Quốc vẫn giữ được tốc độ tăng ở mức thấp, đang trên đà phục hồi, nhưng nền tảng phát triển chưa thật sự vững chắc. Chính phủ Trung Quốc tung ra gói kích thích kinh tế gồm cả chính sách tài khóa và tiền tế lớn nhất kể từ sau đại dịch nhằm khôi phục niềm tin và thúc đẩy tăng trưởng. IMF đã nâng mức dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 của Trung Quốc lên 5,0% do tiêu dùng tư nhân phục hồi và xuất khẩu tăng trở lại.
Nhìn chung nền kinh tế toàn cầu bắt đầu chuyển hướng tích cực với lạm phát giảm, tăng trưởng thương mại mạnh hơn, ngân hàng trung ương của các nền kinh tế lớn cắt giảm lãi suất là những căn cứ để IMF và OECD cùng đưa ra dự báo GDP toàn cầu năm 2024 tăng 3,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với mức tăng của năm 2023.
Kinh tế Việt Nam dần phục hồi nhưng chưa vững chắc, đối mặt với nhiều rủi do, thách thức
Kinh tế nước ta dần phục hồi, với dấu hiệu tốt dần lên theo từng quý, mặc dù có những tháng sự phục hồi khá mong manh. Doanh nghiệp phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức.
Trong ba quý đầu năm, có trên 50% số doanh nghiệp phản ánh gặp khó khăn do nhu cầu của thị trường trong nước thấp; trên 30% phản ánh khó khăn về thị trường thế giới suy giảm; gần 30% doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Đặc biệt đáng lưu ý với thực trạng khoảng 20% số doanh nghiệp không tuyển được lao động theo yêu cầu.
Tình hình doanh nghiệp gia nhập và rút khỏi thị trường đã có tín hiệu khá tích cực qua từng quý. Quý I/2024, số doanh nghiệp ra nhập thị trường chỉ bằng 0,8 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; chỉ số này của 6 tháng đã đổi chiều, với số doanh nghiệp ra nhập bằng 1,08 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; đến 9 tháng, chỉ số doanh nghiệp ra nhập thị trường gấp 1,11 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Trong 9 tháng, bình quân một tháng có 20,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tuy vậy cũng có 18,2 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Đáng lưu ý, trong tổng số 121,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, có tới 75,8% số doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ. Hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ phụ thuộc vào tổng cầu tiêu dùng trong nước của nền kinh tế. Năng lực của khu vực doanh nghiệp tạo ra sản phẩm vật chất phục vụ chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, tích lũy và tiêu dùng trong nước tăng không đáng kể.
Chỉ số PMI trong 9 tháng đầu năm 2024 phản ánh sự phục hồi nhẹ, mong manh của công nghiệp chế biến chế tạo. Chỉ số PMI xoay quanh mức 50,3 - 50,4 điểm trong 4 tháng; giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm trong tháng 3; tăng từ 51,7 điểm của tháng 6 lên 54,7 điểm của tháng 7; giảm xuống 52,4 của tháng 8. Chỉ số PMI tháng 9 giảm 5,1 điểm so với tháng 8, xuống mức 47,3 điểm, phản ánh sức khỏe của ngành công nghiệp chế biến chế tạo suy giảm đáng kể, với sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm sâu, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm nhẹ.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, sản lượng và đơn hàng tăng trở lại ở mức thấp; năng lực sản xuất không thay đổi; tồn kho hàng hóa thành phẩm và nguyên vật liệu giảm mạnh; việc làm biến động tăng, giảm nhẹ trước thực tế đáng lo ngại doanh nghiệp không thể tuyển đủ lao động theo yêu cầu, dẫn tới công việc bị tồn đọng; giá nguyên vật liệu đầu vào và giá sản phẩm đầu ra tăng lên, tạo áp lực lạm phát, làm suy giảm tổng cầu tiêu dùng trong nước.
Cơn bão số 3 đã gây thiệt hại nặng nề cho các trang trại, hộ trồng lúa, hoa mầu, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, phải cần thời gian và nguồn tài chính để tái sản xuất. Nhiều cơ sở du lịch, lưu trú bị hư hỏng, phải đóng cửa để sửa chữa, bỏ lỡ mùa khách du lịch quốc tế cuối năm nay và đầu năm sau, đồng thời cũng khó thu hút được khách nội địa.
Cùng với các ngành nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ chịu thiệt hại nặng nề, bão số 3 tác động rất nghiêm trọng đến ngành công nghiệp và xây dựng, gây ra ngừng trệ sản xuất tạm thời. Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market cho rằng cơn bão đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ tăng trưởng mạnh của ngành sản xuất. Tuy nhiên, tổng cầu thế giới đang tạo cơ hội cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, các doanh nghiệp lạc quan về triển vọng trong năm 2025.
Theo ước tính, hậu quả của cơn bão số 3 gây thiệt hại cho nền kinh tế trên 81 nghìn tỷ đồng, dư nợ của ngành ngân hàng bị tác động khoảng 165 nghìn tỷ, tác động tới hoạt động kinh tế tại 21 địa phương chiếm trên 40% GDP của nền kinh tế, làm giảm giá trị tăng thêm cả 3 khu vực: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm khoảng 0,33%, công nghiệp và xây dựng giảm khoảng 0,05% và dịch vụ giảm 0,22%, làm GDP năm 2024 giảm khoảng 0,15%.
Chính phủ phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương pháp chỉ đạo tạo sức mạnh cho các động lực tăng trưởng
Trong bối cảnh ngân hàng Trung ương các nền kinh tế hàng đầu thế giới cắt giảm lãi suất ở mức khá sâu và có thể tiếp tục cắt giảm trong thời gian tới; kinh tế nước ta có độ mở lớn, nguyên vật liệu dùng trong sản xuất phụ thuộc khá lớn từ nhập khẩu, năm 2024 tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa vào "cỗ xe tam mã" với tầm quan trọng khác nhau của ba "Ngựa kéo", cũng là ba động lực tăng trưởng, đó là: Xuất khẩu hàng hóa trong bối cảnh tổng cầu thế giới dần gia tăng; Giải ngân vốn đầu tư công, giữ vững ổn định vĩ mô tạo niềm tin và động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài giải ngân vốn FDI; Tiêu dùng cuối cùng trong nước.
Xuất khẩu hàng hóa có triển vọng lập mốc lịch sử mới
Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 299,63 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại hàng hóa quốc tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 299,63 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước, với đóng góp nổi bật về giá trị kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước của các mặt hàng:rau quả đạt 5,64 tỷ USD, tăng 33,9%; gạo đạt 4,35 tỷ USD, tăng 23 %; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 11,68 tỷ USD, tăng 21,5%; dệt may đạt 27,3 tỷ USD, tăng 8,9%; giày dép đạt 16,53 tỷ USD, tăng 12,5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 52,75 tỷ USD, tăng 27,4%; điện thoại và linh kiện đạt 41,89 tỷ USD, tăng 7,2%.
Bức tranh xuất khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm có sắc màu tươi mới đó là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước đạt 20,7%, cao hơn nhiều tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 13,4% của khu vực FDI.
Ngoại trừ kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ba tháng đầu năm 2024 biến động tăng, giảm do yếu tố “mùa vụ”, bức tranh xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong 9 tháng ghi dấu ấn đậm nét với kim ngạch xuất khẩu bình quân những tháng sau cao hơn những tháng trước.
Bình quân một tháng trong 9 tháng đầu năm 2024 kim ngạch xuất khẩu đạt 33,29 tỷ USD, cao hơn 1,52 tỷ USD so với bình quân một tháng trong 6 tháng đầu năm 2024. Nếu duy trì được mức xuất khẩu tháng sau cao hơn tháng trước trong quý IV/2024 thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 ước lập mốc lịch sử khoảng 400 tỷ USD, vượt mốc 371,82 tỷ USD của năm 2022.
Cán cân thương mại hàng hóa 9 tháng đầu năm 2024 xuất siêu 20,79 tỷ USD, giảm 0,53% so với mức xuất siêu 20,9 tỷ USD của cùng kỳ năm 2023; trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 17,38 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 38,17 tỷ USD.
Tính chung chín tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 17,4 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó dịch vụ du lịch đạt 8,8 tỷ USD (chiếm 50,6% tổng kim ngạch), tăng 33,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ vận tải đạt 4,9 tỷ USD (chiếm 28,1%), tăng 7,9%.
38 Kỳ báo cáo tháng Tám sơ bộ xuất siêu 4,53 tỷ USD.
Trong 9 tháng năm 2024 xuất khẩu dịch vụ ước đạt 17,4 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu dịch vụ ước đạt 26,6 tỷ USD tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước, nhập siêu dịch vụ 9 tháng năm 2024 là 9,2 tỷ USD.
Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế lớn, là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam cắt giảm lãi suất sẽ tác động tới tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD theo hướng nâng giá trị của VNĐ. Điều này có tác động thuận cho nhập khẩu và tác động nghịch cho xuất khẩu. Thêm nữa, sản xuất trong nước phụ thuộc khá nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, trong quý IV/2024 các doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng gia tăng vào cuối năm sẽ kéo theo nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh, có thể dẫn tới nhập siêu trong ba tháng cuối năm, làm suy giảm mức thặng dư của cán cân thương mại hàng hóa cả năm.
Giải ngân vốn đầu tư công chậm, đầu tư của khu vực ngoài nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng
Điểm sáng trong chỉ đạo giải ngân vốn đầu tư công đó là sự chỉ đạo quyết liệt, xử lý những bất cập chồng chéo trong môi trường pháp lý; với tư duy đổi mới, phương pháp, cách tiếp cận khác so với cách làm trước đây của Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo địa phương, Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối đã rút ngắn thời gian thi công từ 3-4 năm xuống còn 7 tháng. Đây là điển hình sinh động về tập trung nguồn lực, quan tâm chỉ đạo, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công, tạo sự lan tỏa và thu hút đầu tư từ các nguồn vốn của nền kinh tế. Thành công của Dự án là minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân.
Tuy vậy, theo Bộ Tài chính, ước giải ngân vốn đầu tư công trong 9 tháng đầu năm 2024 được 320,56 nghìn tỷ đồng, đạt 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2023 cả về số tuyệt đối và số tương đối vẫn chủ yếu nằm ở các nguyên nhân chủ quan, đặc biệt công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp cơ sở, cấp tổ chức thực hiện từ đầu năm đến nay cũng chưa quyết liệt. Nhiều nơi xuất hiện tình trạng đùn đẩy, sự thận trọng quá mức của một bộ phận cán bộ, khiến nhiều dự án lớn tiếp tục chậm tiến độ.
Đặc biệt, vướng mắc về cơ chế chính sách, về giải phóng mặt bằng, về thiếu nguyên vật liệu là những nguyên nhân đã được chỉ ra trong nhiều năm qua nhưng chưa có giải pháp xử lý khiến tiến độ giải ngân các dự án bị chậm.
Vốn đầu tư ngoài nhà nước chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư của toàn nền kinh tế. Trước đại dịch Covid-19, vốn đầu tư thực hiện của khu vực ngoài nhà nước có tốc độ tăng trên 10% mỗi năm, phản ánh vai trò rất quan trọng của nguồn vốn này đối với nâng cao năng lực, thúc đẩy tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư ngoài nhà nước thực hiện đạt 1.336,9 nghìn tỷ, chiếm 55,3% tổng số vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Giải ngân vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước có dấu hiệu khởi sắc nhưng chưa được huy động hết tiềm năng cho phát triển. Chính phủ cần giải pháp hữu hiệu về thể chế, cơ chế, chính sách đối với nguồn vốn quan trọng này trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đầu tư nước ngoài khởi sắc, Chính phủ kiến tạo cơ hội, sẵn sàng tâm thế đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới
Cùng với tận dụng các lợi thế hiện có của kinh tế Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI. Trong thời gian qua, Chính phủ có những quyết sách nhằm tạo dựng cơ hội, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới, như thành lập đưa vào hoạt động Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia, xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hợp tác với các doanh nghiệp, đối tác nước ngoài thực hiện mục tiêu đào tạo 50 nghìn kỹ sư đến năm 2030. Bên cạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, Chính phủ và các địa phương đang thực thi giải pháp nhằm đảm bảo năng lượng ổn định, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh.
Số dự án, số vốn đăng ký của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt số vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2024 đã phác họa những nét chấm phá của bước ngoặt trong làn sóng đón nhận dòng vốn FDI thế hệ mới. Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng, sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều hàm lượng giá trị gia tăng được đầu tư mới và bổ sung vốn trong 9 tháng.
Trong 9 tháng đầu năm 2024 có 2.492 dự án được cấp phép, với số vốn đăng ký đạt 13,55 tỷ USD, tăng 11,3% với cùng kỳ năm trước; có 1.027 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tưvới tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt 7,64 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,3 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, là số vốn FDI thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua, cao hơn cả số vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2019 - Năm trước đại dịch.
Cùng với giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ và các địa phương cần tiếp tục có chính sách và giải pháp thực hiện vốn đầu tư ngoài nhà nước, thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện giải ngân vốn FDI nhiều nhất có thể để “Ngựa đầu tư” thực hiện tốt vai trò gánh vác, bù đắp, hỗ trợ “Ngựa kéo tiêu dùng” trong nỗ lực kéo cỗ xe tăng trưởng kinh tế cả năm về đích với kết quả cao nhất.
Kết quảthực hiện động lực đầu tư đã nâng năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế cho những năm tới. Trong 9 tháng, tích lũy tài sản theo giá hiện hành đạt 2.451,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,86%, đóng góp 36,68% vào tăng trưởng của nền kinh tế.
Tiêu dùng cuối cùng - Động lực tăng trưởng có quy mô lớn nhất, quan trọng nhất có bước đi chậm và ngắn
Tiêu dùng cuối cùng chiếm tỷ trọng trên 63% GDP, phản ánh vai trò rất quan trọng của động lực này đối với tăng trưởng kinh tế. Trong 9 tháng đầu năm nay, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ tăng 6,18%, đóng góp 62,66% vào tốc độ tăng 6,82% của nền kinh tế. Mặc dù đã có sự “hỗ trợ tiêu dùng” của 12,7 triệu lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.703,4 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 8,8%, thấp hơn 1,3 điểm phần trăm so với mức tăng 10,1% của cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá so sánh tăng 5,8%, thấp hơn 1,8 điểm phần trăm so với mức tăng 7,6% của cùng kỳ năm 2023.
Điều này phản ánh khó khăn của các hộ gia đình khi việc làm và thu nhập vẫn bị ảnh hưởng do sự phục hồi chậm và yếu của nền kinh tế; tỷ lệ hộ gia đình gặp khó khăn về tài chính còn cao; niềm tin của người tiêu dùng giảm sút, người dân thắt chặt chi tiêu, tiết kiệm nhiều hơn và trì hoãn các khoản mua sắm có giá trị lớn.
Nguyên nhân của thực trạng này có nguồn gốc từ hậu quả nặng nề do đại dịch Covid-19 gây nên, nền kinh tế chưa hoàn toàn phục hồi như trước đại dịch. Làn sóng di cư của người lao động từ các khu công nghiệp về quê, chấp nhận việc làm bấp bênh trong khu vực phi chính thức với thu nhập thấp hơn, nhưng đổi lại người lao động được sống yên bình tại quê hương, không phải trang trải chi phí thuê nhà, có nhiều thời gian chăm sóc gia đình, thu nhập giảm nhưng cuộc sống thư thái, an yên.
Chính phủ chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, kiểm soát lạm phát, giữ ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng
Hội nghị Thường trực Chính phủ với các ngân hàng thương mại cổ phần về các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Trong 9 tháng vừa qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giữ ổn định các mức lãi suất điều hành tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp để hỗ trợ nền kinh tế.
Ngay từ đầu năm, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2024 khoảng 15%, đồng thời giao hết toàn bộ chỉ tiêu cả năm cho các tổ chức tín dụng (TCTD), linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế. Đặc biệt, NHNN đã chủ động bổ sung hạn mức tín dụng cho các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt từ 80% chỉ tiêu NHNN đã thông báo đầu năm 2024, tạo thuận lợi cung ứng vốn đối với nền kinh tế.
Cùng với giải pháp điều hành lãi suất và tín dụng, NHNN đã phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp, xử lý hiệu quả các cú sốc bên ngoài, bình ổn thị trường ngoại tệ, Việt Nam đồng mất giá với biên độ phù hợp với xu hướng chung của các đồng tiền trong khu vực và trên thế giới, góp phần giữ vững ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Bộ Tài Chính tiếp tục thực hiện chính sách giảm, giãn, hoãn các loại thuế, phí, tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất, như giảm 2% thuế VAT; giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn; giảm mức thu đối với 36 khoản phí, lệ phí để hỗ trợ cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, người dân; gia hạn thời gian nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất.
Sự năng động của các thực thể kinh tế trong sản xuất kinh doanh, cùng với điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt, trách nhiệm của Chính phủ, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tạo dư địa để điều chỉnh giá một số loại dịch vụ chiến lược sát với giá thị trường. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước, tăng 2,18% so với tháng 12/2023, tăng 2,36% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát bình quân 9 tháng được kiểm soát ở mức 3,88%, lạm phát cơ bản ở mức 2,69%.
Tổng sản phẩm trong nước 9 tháng đầu năm 2024 tăng 6,82%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 3,2%. Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 8,19% và khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 6,95%.
So với kịch bản tăng trưởng GDP để cả năm đạt mục tiêu tăng 6,5% thì khu vực I tăng đúng bằng mức cao trong kịch bản; khu vực II tăng cao hơn 1,69 điểm phần trăm; và khu vực III tăng cao hơn 0,15 điểm phần trăm.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế 9 tháng phản ánh khu vực II và khu vực III đã khởi sắc, dần lấy lại vai trò là động lực và dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn 0,63 điểm phần trăm so với 9 tháng đầu năm 2023. Tuy vậy, một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ như: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đều có mức tăng thấp hơn so với 9 tháng đầu năm 2023.
Tập trung chỉ đạo thúc đẩy và phát huy hiệu quả cao nhất các động lực tăng trưởng
Năm 2024 - năm bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tạo thế và lực cho đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong bối cảnh bức tranh kinh tế 9 tháng có nhiều điểm sáng, đan xen với khó khăn thách thức.
Chính phủ và các địa phương khẩn trương thực hiện các giải pháp khắc phục hậu quả thiên tai, sớm đưa các doanh nghiệp và hộ sản xuất bị ảnh hưởng quay trở lại hoạt động. Chính phủ cần tập trung chỉ đạo thúc đẩy và phát huy hiệu quả cao nhất các động lực tăng trưởng.
Đối với động lực đầu tư:Đầu tư công có vai trò quan trọng, tạo tác động lan tỏa, dẫn dắt, kích hoạt các nguồn lực xã hội cho phát triển. Trong môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh ổn định, giải ngân 1 đồng vốn đầu tư công kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư ngoài nhà nước; vốn đầu tư công thực hiện tăng thêm 1% so với cùng kỳ năm trước kéo theo GDP tăng thêm 0,058%.
Năm 2024, Chính phủ dành 677,3 nghìn tỷ đồng cho đầu tư công. Nếu giải ngân được 95% tổng nguồn vốn này, tương đương với khoảng 643,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,4% so với số vốn giải ngân của năm 2023, khi đó GDP sẽ tăng thêm 0,6%.
Để cả năm 2024 giải ngân đạt 95% kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, trong 3 tháng còn lại cần giải ngân 322,94 nghìn tỷ đồng, cao hơn số vốn đã giải ngân trong 9 tháng. Đây là nhiệm vụ nhiều khó khăn, thách thức, không dễ thực hiện nếu không có những đột phá trong giải pháp và tổ chức thực hiện các dự án.
Trong 3 “Ngựa kéo” cỗ xe kinh tế năm 2024, các nhà quản lý chỉ có thể chủ động cao nhất trong điều khiển “Ngựa đầu tư” để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả năm. Vì vậy, Chính phủ và các địa phương cần huy động sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, phát huy tinh thần trách nhiệm của các cấp các ngành, đặc biệt trách nhiệm của người đứng đầu.
Chính phủ cần thực hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ trung ương tới địa phương, tới các cấp sở ban ngành để cùng với nhà thầu nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện; trình tự thủ tục cần đơn giản hóa, rút ngắn thời gian thực hiện; cần linh hoạt hơn trong thu hút các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế, chứ không chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước để cùng thời điểm có thể thực hiện nhiều dự án thành phần.
Chính phủ cần trực tiếp chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho từng dự án đầu tư công có quy mô lớn, liên quan tới nhiều ngành, nhiều địa phương như cách triển khai thực hiện Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối. Định kỳ kiểm điểm tiến độ, gắn trách nhiệm của người đứng đầu; xử lý nghiêm những trường hợp không thực hiện hết trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
Với tầm quan trọng của đầu tư ngoài nhà nước, Chính phủ cần có giải pháp khơi thông, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngoài nhà nước cho phát triển.
Đối với động lực tiêu dùng:Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ là động lực có quy mô lớn nhất, tác động mạnh nhất, quan trọng nhất trong các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Tổng cầu tiêu dùng cuối cùng tăng lên đồng nghĩa với tháo gỡ khó khăn về tìm kiếm thị trường cho khu vực doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt sự phụ thuộc vào tổng cầu thế giới.
Chính phủ cần thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng thông qua chính sách thuế và an sinh xã hội như giảm thuế thu nhập cá nhân; giảm thuế VAT với thời hạn dài hơn, tỷ lệ cao hơn 2%; giảm giá dịch vụ hàng không, đường sắt để kích cầu du lịch trong nước và thu hút du lịch nước ngoài; tăng cường các đợt khuyến mại với mục tiêu Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Cùng với đó, Chính phủ cần thực hiện chính sách an sinh xã hội trợ cấp cho người nghèo, hỗ trợ nhà ở xã hội cho người lao động, tạo an tâm về chỗ ở, khuyến khích tinh thần làm việc, để nâng cao tỷ lệ lao động của khu vực chính thức, tạo việc làm ổn định đáp ứng đủ yêu cầu lao động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nâng mức thu nhập chịu thuế, giảm thuế VAT hàng tiêu dùng thiết yếu để tăng nhu cầu chi tiêu.
Niềm tin của người tiêu dùng có ý nghĩa rất lớn, đảm bảo hiệu quả của các giải pháp kích cầu tiêu dùng, vì vậy cùng với chính sách an sinh xã hội, tạo việc làm ổn định, chính sách về lãi suất ngân hàng, thị trường bất động sản, giá vàng, giá ngoại tệ ổn định..., sẽ tăng thêm niềm tin của người tiêu dùng, thúc đẩy chi tiêu, xử lý được bài toán nhu cầu thị trường trong nước thấp đối với doanh nghiệp.
Đối với động lực xuất khẩu: Năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 27,78 tỷ USD, góp phần rất quan trọng trong tăng trưởng GDP đạt 5,05%. Để hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2024 đóng góp cho tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng của năm trước, khi đó cán cân thương mại cả năm 2024 phải xuất siêu vượt mức 27,78 tỷ USD của năm trước.
Để phát huy tối đa động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế, Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ, chính sách tỷ giá để hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu; nâng cao hiệu quả công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và thực hiện đầy đủ cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở rộng thị trường, duy trì cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu ở mức cao nhất có thể.
Đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho doanh nghiệp: Để ngăn chặn sự đứt gãy chuỗi cung ứng lao động, Chính phủ và các địa phương thực hiện chương trình đào tạo nghề và kỹ năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, đồng thời thực thi chính sách, giải pháp cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, như hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động tại các khu công nghiệp.
Đặc biệt, các doanh nghiệp sắp xếp lại sản xuất, cắt giảm chi phí không cần thiết, chủ động nâng mức lương lên cao hơn để phù hợp với điều kiện sống của lao động và có chế độ chăm sóc, đãi ngộ hấp dẫn hơn nhằm tuyển dụng đủ lao động đáp ứng nhu cầu sản xuất./.
Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
Nguồn Chính Phủ : https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/can-lam-gi-de-dua-co-xe-kinh-te-viet-nam-nam-2024-ve-dich-thang-loi-119241006135015214.htm