Cân nhắc kỹ lưỡng tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai

Cân nhắc kỹ lưỡng tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai
2 giờ trướcBài gốc
Cần mở rộng các chính sách hỗ trợ thực chất hơn
Chiều 10/11, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Dân số.
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn Hải Phòng
Góp ý vào dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn Hải Phòng bày tỏ sự nhất trí với việc xây dựng và ban hành Luật Dân số. Việc ban hành luật lần này là vô cùng cần thiết, bởi các chính sách dân số hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với thực trạng dân số Việt Nam hiện nay.
Quy mô dân số đang tăng chậm, mức sinh có xu hướng suy giảm tại nhiều địa phương, trong khi mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức đáng báo động và tình trạng già hóa dân số diễn ra nhanh hơn dự báo.
Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước đã thay đổi mạnh mẽ; nhận thức, lối sống và quan điểm về hôn nhân - gia đình của người dân, đặc biệt là giới trẻ, cũng có nhiều thay đổi. Tâm lý kết hôn muộn, sinh ít, thậm chí không muốn sinh con ngày càng phổ biến; trong khi một số định kiến giới tính vẫn tiếp tục tồn tại ở một số bộ phận xã hội.
"Những sự thay đổi này tạo ra thách thức mới đối với công tác dân số, đặt lên yêu cầu phải thay đổi, ban hành chính sách mới để nâng cao chất lượng dân số và thích ứng với già hóa dân số" - đại biểu Quốc hội đoàn Hải Phòng nhấn mạnh.
Về quy định tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai, điểm a khoản 1 Điều 13 Dự thảo quy định: “Tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai: Phụ nữ được nghỉ thêm 1 tháng”. Theo đại biểu, đây là quy định sẽ nhận được sự đồng tình của khá nhiều những người đã, đang và sẽ làm mẹ. Tuy nhiên, cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
Khi kéo dài thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ, doanh nghiệp sẽ có xu hướng e ngại tuyển hoặc bố trí lao động nữ vào các vị trí quan trọng do lo ngại gián đoạn công việc và chi phí phát sinh. Quy định này có thể vô tình trở thành rào cản đối với lao động nữ và làm gia tăng nguy cơ phân biệt đối xử về giới trong tuyển dụng và sử dụng lao động nữ.
Bên cạnh đó, đối với nhóm phụ nữ hiện nay có xu hướng coi trọng sự nghiệp, đặc biệt là nhóm lao động trẻ, lao động chất lượng cao, chính sách tăng thời gian nghỉ thai sản có thể tạo tâm lý e ngại sinh con thứ hai. Do sự lo lắng rằng việc vắng mặt dài hơn sẽ ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến, đánh giá hiệu quả công việc hoặc vị trí trong cơ quan, doanh nghiệp.
Vì vậy, đối với biện pháp này, nên có quy định mở, có sự phân biệt giữa các nhóm nghề, ngành, khu vực trước khi áp dụng. Đồng thời, cần song song bổ sung các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giảm chi phí sử dụng lao động nữ, cũng như có chính sách bảo đảm cơ hội thăng tiến bình đẳng cho phụ nữ sau khi nghỉ thai sản.
Mặt khác, thay vì chỉ tập trung kéo dài thời gian nghỉ thai sản cho phụ nữ, cần mở rộng các chính sách hỗ trợ thực chất hơn để giảm gánh nặng cho phụ nữ trong việc sinh con và chăm sóc con.
Một trong những vấn đề cần được quan tâm là phát triển hệ thống nhà trẻ, cơ sở trông giữ trẻ từ 6 tháng tuổi, tạo điều kiện để phụ nữ quay trở lại công việc sớm hơn nếu họ có nhu cầu. Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy trong xây dựng chính sách, nên quy định vợ hoặc chồng đều có thể nghỉ dài ngày để chăm sóc con mới sinh, thay vì chỉ quy định phụ nữ nghỉ dài như hiện nay.
Đại biểu cũng đề xuất, có thể xem xét cơ chế linh hoạt, trong đó, tổng thời gian nghỉ của cả hai vợ chồng không quá 7 hoặc 8 tháng, tùy gia đình lựa chọn phân bổ. Cách tiếp cận này vừa bảo đảm trẻ được chăm sóc, vừa thúc đẩy sự chia sẻ trách nhiệm giữa cha và mẹ, giảm áp lực cho phụ nữ trong giai đoạn sau sinh...
Về bổ sung biện pháp duy trì mức sinh thay thế, Điều 13 dự thảo đưa ra nhiều biện pháp hiệu quả để duy trì mức sinh thay thế. Bên cạnh những biện pháp được đưa ra trong dự thảo, tôi đề nghị nghiên cứu, xem xét biện pháp hỗ trợ đối với những cặp vợ chồng hiếm muộn, gặp khó khăn trong việc sinh con.
Thực tế hiện nay, tình trạng hiếm muộn không còn là vấn đề hiếm gặp. Việc có những chính sách hỗ trợ phù hợp sẽ góp phần thiết thực trong việc duy trì mức sinh thay thế và nâng cao chất lượng dân số. Đây cũng là biện pháp này còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm, chia sẻ và đồng hành của nhà nước đối với các gia đình trong hành trình thực hiện thiên chức làm cha, làm mẹ.
Đảm bảo tính khả thi, phù hợp thực tiễn
Về duy trì mức sinh thay thế, đại biểu Tô Văn Tám - đoàn Quảng Ngãi cho hay, theo điểm b khoản 1 Điều 13, có 3 đối tượng được hỗ trợ tài chính: Phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ dân tộc ít người; phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; phụ nữ ở địa phương có mức sinh thay thế thấp.
Đại biểu Tô Văn Tám - đoàn Quảng Ngãi
Theo quy định này, đối tượng phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi được hiểu là chỉ phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi mới được hỗ trợ tài chính, còn lại thì không được. Do đó, ông Tô Văn Tám cho rằng, cần làm rõ cơ sở của quy định này.
Mặc dù quy định như vậy nhằm khuyến khích người trong độ tuổi sinh đẻ, góp phần đảm bảo nguồn nhân lực cho tương lai, nhưng nhìn ở góc độ hợp lý, tính công bằng thì vẫn chưa thỏa đáng. Quy định này có thể dẫn đến sự phân biệt đối với những người sinh đủ hai con sau tuổi 35. Cùng với đó, chưa tính đến hoàn cảnh cá nhân của người phụ nữ sinh con sau tuổi 35.
"Những người phụ nữ này có thể họ cũng muốn sinh trước 35 tuổi, nhưng vì nhiều điều kiện như do sự nghiệp, áp lực công việc, điều kiện kinh tế, tìm kiếm bạn đời chưa phù hợp hay những yếu tố về khách quan khác của bản thân mà chưa thể sinh đẻ trước 35 tuổi. Sau đó họ sinh đủ 2 con sau 35 tuổi nhưng lại không được hỗ trợ" - ông Tám phân tích và nhận định như vậy chưa công bằng.
Từ đó, ông Tám cho rằng, cần hệ thống lại quy định này cho đồng bộ hơn theo hướng hỗ trợ cho phụ nữ sinh đủ hai con ở tất cả các độ tuổi. Hơn thế, cần có chính sách bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, hỗ trợ các dịch vụ về bảo đảm quyền bình đẳng trong lao động bằng một chính sách dân số việc làm thích hợp, không chỉ quy định đơn thuần là sinh trước 35 hay sau 35 tuổi.
Tham gia góp ý kiến, về khoản 1, Điều 13 quy định một số chính sách hỗ trợ khuyến khích sinh đủ hai con như nghỉ thai sản, hỗ trợ tài chính, nhà ở, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên - đoàn Tây Ninh nêu, thực tiễn cho thấy, việc triển khai các chính sách này, đặc biệt là chính sách về nhà ở, gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn lực và khả năng cân đối ngân sách, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn.
Ngoài ra, các chính sách chưa thực sự khuyến khích mạnh mẽ vai trò của nam giới trong việc chia sẻ, chăm sóc con cái. Vì vậy, đề nghị ban soạn thảo rà soát, quy định theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính khả thi.
Đại biểu cũng đề nghị bổ sung một số chính sách mang tính bền vững, thiết thực như hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông giữ trẻ, giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập đảm bảo chất lượng. Đây là giải pháp căn cơ giúp giảm gánh nặng chăm sóc con nhỏ cho các gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ, đặc biệt là lao động nữ sớm quay lại thị trường lao động.
Đồng thời, bổ sung chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân cho gia đình sinh đủ hai con. Theo bà Uyên, đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp có tính khuyến khích cao và phù hợp với xu hướng chính sách tại một số quốc gia đang đối mặt với tỷ suất sinh thấp. Chính sách này không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ yên tâm sinh và nuôi dạy con, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu dân số.
Tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Dân số chiều 10/11, nhiều đại biểu Quốc hội đã bày tỏ đồng thuận cao với sự cần thiết ban hành luật mới, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến thực tế về các chính sách duy trì mức sinh thay thế và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thực hiện thiên chức làm mẹ. Những góp ý này không chỉ cho thấy trách nhiệm xã hội sâu sắc, mà còn phản ánh tầm nhìn phát triển con người toàn diện, coi chính sách dân số là chính sách phát triển con người.
Quỳnh Nga
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/can-nhac-ky-luong-tang-thoi-gian-nghi-thai-san-khi-sinh-con-thu-hai-429829.html